Tuần -18 - Ngày 29/03/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
Năng lực liên kết của ba vùng kinh tế trọng điểm Bắc- Trung -Nam
30/11/2008

 

 

Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta để thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Chủ trương đó gắn liền với yêu cầu đổi mới tư duy, quy hoạch, kế hoạch và chính sách vĩ mô nhằm thúc đẩy quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, vùng và thành phần kinh tế, trong đó vai trò của vùng KTTĐ có ý nghĩa quan trọng. Thực tiễn ở nước ta cho thấy, phát triển vùng KTTĐ bên cạnh những mặt thuận lợi cũng nảy sinh nhiều khó khăn, thách thức.

1 - Quá trình hình thành và phát triển của 3 vùng kinh tế trọng điểm

Ba vùng KTTĐ Bắc, Trung, Nam hình thành và phát triển là sản phẩm của đường lối đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo. Triển khai Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng về phát triển kinh tế vùng trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chính phủ đã ra quyết định thành lập 3 vùng "tam giác kinh tế động lực", hạt nhân của 3 vùng KTTĐ của 3 miền: Bắc, Trung, Nam. Tam giác kinh tế động lực miền Bắc lúc đầu gồm Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh với Thủ đô Hà Nội là hạt nhân. Tam giác kinh tế động lực miền Trung gồm 3 tỉnh: Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng và Quảng Ngãi, thành phố Đà Nẵng là hạt nhân. Tam giác kinh tế phía Nam gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh là hạt nhân.

Sau một thời gian thử nghiệm và phát triển, 3 tam giác kinh tế động lực đã đạt được một số kết quả nhất định. Vai trò và sự liên kết kinh tế giữa 3 tỉnh, thành trong từng tam giác cũng như giữa 3 tam giác kinh tế động lực với nhau đã bước đầu được thể hiện trên một số mặt. Tuy nhiên, quy mô và tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các tỉnh trong một tam giác cũng như giữa 3 tam giác với nhau chưa đều và chưa vững. Vì vậy bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, những yêu cầu mới về phát triển kinh tế vùng và sự liên kết giữa các vùng KTTĐ với các vùng khác tăng lên, phạm vi và vai trò liên kết của 3 vùng KTTĐ Bắc, Trung, Nam phải điều chỉnh theo hướng mở rộng cho phù hợp. Cuối năm 1997 và đầu năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã lần lượt phê duyệt Quyết định số 747/1997/QĐ-TTg; Quyết định số 1018/1997/QĐ-TTg và Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ba vùng KTTĐ Bắc, Trung, Nam gồm 13 tỉnh, thành như sau:

- Vùng KTTĐ miền Bắc gồm: Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh.

- Vùng KTTĐ miền Trung gồm: Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi.

- Vùng KTTĐ miền Nam gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu và Đồng Nai.

Các vùng KTTĐ đã phát huy vai trò đầu tàu thúc đẩy quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tùy theo thế mạnh và vị trí của từng vùng, vai trò liên kết giữa các tỉnh trong vùng và giữa các vùng với nhau không ngừng tăng lên theo chiều rộng và chiều sâu gắn với xu thế hội nhập và mở cửa. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, ba vùng KTTĐ Bắc, Trung, Nam cũng còn nhiều hạn chế do không gian chật hẹp. Trong khi đó yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế ngày càng tăng, sự phát triển của một số tỉnh gần kề khá nhanh, đòi hỏi sự liên kết kinh tế với ba vùng KTTĐ cũng tăng lên. Trong bối cảnh đó không gian của ba vùng KTTĐ theo các quyết định cũ trở nên chật hẹp, không còn thích hợp.

Bước vào thế kỷ XXI, quá trình đổi mới chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới theo Nghị quyết Đại hội IX và X của Đảng, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung và kinh tế vùng đặt ra những yêu cầu mới cao hơn và cấp bách hơn. Để đáp ứng các yêu cầu đó vai trò đầu tàu của ba vùng KTTĐ Bắc, Trung, Nam càng được khẳng định. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã nhấn mạnh: "Nhà nước tiếp tục thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh, đồng thời tạo điều kiện và đầu tư thích đáng hơn cho nhiều vùng khó khăn. Thống nhất quy hoạch phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ kỹ thuật và nguồn nhân lực"(1).

Bộ Chính trị (Khóa IX) đã ra các Nghị quyết số 39, số 53 và số 54, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định số 145/2004/QĐ-TTg, số 148/2004/QĐ-TTg và số 146/2004/ QĐ-TTg về điều chỉnh quy hoạch tổng thể ba vùng KTTĐ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.

Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, địa giới hành chính của 3 vùng KTTĐ Bắc, Trung, Nam có 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (nếu kể cả 3 tỉnh: Tiền Giang vào vùng KTTĐ miền Nam, Phú Yên, Khánh Hòa vào vùng KTTĐ miền Trung thì địa giới đó là 23 tỉnh, thành).

2 - Thực trạng vai trò và năng lực liên kết kinh tế của ba vùng kinh tế trọng điểm

a - Vùng kinh tế trọng điểm miền Nam

Vùng KTTĐ miền Nam được thành lập sớm nhất, liên tục được điều chỉnh địa giới hành chính để phát huy lợi thế và tiềm năng của các tỉnh trong vùng Đông Nam Bộ gắn kết với vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau một thời gian hoạt động theo Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg, vùng KTTĐ miền Nam đã phát huy vai trò đầu tàu thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa trong vùng Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, do phạm vi không gian bị hạn chế, sự liên kết với các tỉnh Nam Bộ, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long chưa được phát huy nên yêu cầu mở rộng phạm vi của vùng là cần thiết. Từ tháng 6-2003, Thủ tướng Chính phủ đồng ý mở rộng phạm vi vùng bao gồm 7 tỉnh, ngoài 4 tỉnh cũ còn có thêm Bình Phước, Tây Ninh, Long An, với tổng diện tích 23.994,2 km2, bằng 15,4% diện tích của cả nước. Phạm vi không gian được mở rộng ra ngoài vùng Đông Nam Bộ, thêm 1 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long là Long An (sau này thêm Tiền Giang). Với phạm vi rộng, dân số đông, đất đai màu mỡ, lao động dồi dào, kinh tế đa ngành, kết cấu hạ tầng khá hoàn chỉnh, vùng KTTĐ miền Nam có vai trò rất quan trọng đối với kinh tế các tỉnh phía Nam cũng như với cả nước. Trong nhiều năm gần đây, vùng này tạo ra 60% nguồn thu ngân sách quốc gia, trên 70% kim ngạch xuất khẩu và là khu vực kinh tế hàng hóa năng động vào bậc nhất cả nước. Đây cũng là vùng thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), có các khu công nghiệp, khu chế xuất nhiều nhất và sớm nhất. Các trung tâm kinh tế, thương mại, dịch vụ lớn đều tập trung vào 8 tỉnh này nên tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh nhất. Tỷ lệ dân số thành thị hiện nay lên tới gần 50%, so với 25% mức bình quân chung của cả nước và tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và lao động cũng nhanh nhất. Vai trò và khả năng liên kết kinh tế của vùng với các tỉnh phía Nam và cả nước vốn đã lớn lại ngày càng được tăng cường do lợi thế và tiềm lực kinh tế - tài chính vượt trội của vùng KTTĐ miền Nam. Vai trò và năng lực liên kết vùng của vùng KTTĐ miền Nam được thể hiện trên các mặt:

Ba vùng KTTĐ Bắc, Trung, Nam được hình thành và phát triển do đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Đương nhiên, để mỗi vùng KTTĐ phát triển nhanh, có hiệu quả phải liên doanh, liên kết giữa các tỉnh và gắn với 8 vùng kinh tế của cả nước.

- Tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình cất cánh của nền kinh tế phía Nam và cả nước bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, làm hình mẫu cho các hình thức liên kết kinh tế giữa các thành phần và khu vực kinh tế trong và ngoài nước, thu hút mạnh vốn FDI, vốn đầu tư phát triển chính thức (ODA), phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động, công nghệ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Hình thành vùng cửa ngõ rộng, thoáng và đầu mối giao lưu quốc tế năng động góp phần nâng cao vị trí của nền kinh tế nước ta trong đối thoại, mở rộng hợp tác, hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt là đối với các nước ASEAN và châu Đại Dương.

- Bố trí địa bàn dân cư theo hướng giảm bớt sức ép về mật độ dân số ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tạo sức lan tỏa những yếu tố lành mạnh, tiến bộ về văn hóa, công nghệ, giáo dục, đào tạo... đối với toàn khu vực phía Nam nói chung Nam Bộ nói riêng.

Quan hệ phối kết hợp giữa 3 vùng KTTĐ với Ban Chỉ đạo của 8 vùng kinh tế và 63 tỉnh, thành phố cần có lộ trình rõ ràng trong quy hoạch và tổ chức chỉ đạo thực hiện.

- Hình thành một địa bàn chiến lược và trọng điểm phòng thủ vững chắc biên giới phía Tây Nam và vùng biển Đông, bảo đảm an ninh, quốc phòng, vùng trời vùng biển phía Nam của Tổ quốc. Việc mở rộng tới Tây Ninh, Tiền Giang và Long An, Bình Phước không chỉ gắn kết kinh tế giữa vùng KTTĐ miền Nam với vùng vựa lúa, trái cây, thủy sản lớn nhất nước, mà còn tạo thế đứng của vùng với các vùng biên giới trên đất liền, trên biển, hải đảo phía Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực Đông - Nam á theo đường lối hòa bình, hữu nghị và hợp tác lâu dài, bình đẳng, cùng có lợi.

- Năng lực liên kết giữa vùng KTTĐ miền Nam với vùng Tây Nguyên cũng rất lớn. Sự liên kết giữa hai vùng này là nhu cầu tất yếu, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển.

Như vậy, vai trò và tính liên kết của vùng KTTĐ miền Nam đối với các tỉnh Nam Bộ và các vùng khác của cả nước đã được thể hiện trên nhiều mặt cả về kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh. Những kết quả đạt được trong những năm qua đã góp phần thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nước theo hướng tiến bộ.

Tuy nhiên, vai trò và ảnh hưởng của vùng KTTĐ miền Nam đối với các tỉnh miền Trung và miền Bắc, đặc biệt đối với vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh miền núi phía Bắc còn mờ nhạt. Tính chất liên kết mới thể hiện một chiều, chủ yếu từ vùng KTTĐ miền Nam đối với các vùng phía Bắc, và còn rất mờ nhạt, cả về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh.

b - Vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc

Đây là vùng có vị trí địa lý, lợi thế so sánh mang ý nghĩa quốc gia và khu vực cũng như bảo vệ an ninh, quốc phòng cho Thủ đô và cả nước. Theo Quyết định số 1018/1997/QĐ-TTg, vùng KTTĐ miền Bắc nằm trên lãnh thổ đồng bằng sông Hồng và vùng núi Đông Bắc, với 5 đỉnh là thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương và Quảng Ninh. Đến năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đồng ý mở rộng phạm vi của vùng đến các tỉnh: Bắc Ninh, Hà Tây và Vĩnh Phúc. Tổng diện tích tự nhiên của vùng KTTĐ miền Bắc là 15.277 km2, bằng 4,76% diện tích của cả nước và dân số (2002) là 13,035 triệu người, bằng 16,35% dân số cả nước. Từ 1-8-2008, địa giới Hà Nội mở rộng gồm toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn (Hoà Bình) nên diện tích, dân số, tài nguyên thiên nhiên và khả năng liên kết của vùng KTTĐ miền Bắc cũng tăng lên. Đây là trung tâm chính trị, văn hóa và khoa học - kỹ thuật lớn nhất và đầu mối giao lưu quốc tế tập trung nhất của cả nước, trong đó hạt nhân là Thủ đô Hà Nội.

Với 8 tỉnh có vị trí địa lý và không gian kinh tế liền kề, các tỉnh trong vùng có nhiều khả năng tạo ra sự liên kết kinh tế để bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Với vị trí địa lý cực kỳ quan trọng, có thủ đô Hà Nội, thành phố cảng Hải Phòng, thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh, vùng KTTĐ miền Bắc là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật lớn nhất nước ta. Toàn vùng có lực lượng cán bộ khoa học - kỹ thuật cao nhiều nhất cả nước: chiếm 72,4% cán bộ có trình độ trên đại học, số lao động đã qua đào tạo chiếm tới 29,5% lực lượng lao động xã hội của vùng. Trình độ văn hóa của dân cư cũng thuộc loại cao nhất cả nước.

Về cơ sở kinh tế, tại vùng này đã và đang phát triển tập trung các khu công nghiệp lớn. Tính đến tháng 4-2008, vùng KTTĐ miền Bắc có hơn 34 khu công nghiệp tập trung đang hoạt động (chiếm 19,6%) với diện tích 8.464 ha (chiếm 19,6% diện tích các khu công nghiệp cả nước, chủ yếu là đất nông nghiệp). Diện tích đất quy hoạch cho mỗi khu công nghiệp phụ thuộc vào điều kiện quỹ đất và khả năng thu hút vốn đầu tư của từng địa phương trong từng thời kỳ.

Các ngành công nghiệp chủ chốt như sản xuất xi-măng, đóng tàu, lắp ráp ô tô, xe gắn máy, luyện cán thép, điện tử, tin học, đóng tàu biển, chế biến lương thực, thực phẩm chất lượng cao... do các doanh nghiệp FDI của các nhà đầu tư nước ngoài quản lý, ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng sản phẩm. Vùng còn là trung tâm sản xuất năng lượng lớn nhất miền Bắc, là nơi sản xuất và xuất khẩu than đá lớn nhất nước với vùng mỏ than lộ thiên Quảng Ninh. Sản xuất điện năng có các nhà máy nhiệt điện lớn như Uông Bí, Phả Lại, Hòn Gai...

Vùng KTTĐ miền Bắc hiện nay cũng còn nhiều khó khăn, yếu kém: Hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, thủy lợi còn nhiều bất cập. ở Hà Nội, nạn ùn tắc giao thông diễn ra nhiều năm, nhưng chậm được khắc phục. Mạng lưới điện phần lớn đã cũ nát, lạc hậu, chắp vá. Hệ thống giao thông nông thôn của cả vùng Bắc Bộ còn kém, nhất là chất lượng đường sá, cầu cống... Máy móc, thiết bị công nghiệp vừa cũ, vừa không đồng bộ nên năng suất và chất lượng sản phẩm công nghiệp chưa cao, sức cạnh tranh kém. Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và vùng đô thị hóa còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập cả về kinh tế và môi trường. Lao động thừa, việc làm thiếu, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chậm là thách thức lớn. Vai trò liên kết của vùng KTTĐ miền Bắc vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Những tiến bộ và kết quả đạt được về tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động, phát triển xã hội chưa đều và chưa vững.

c - Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung

Theo Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, vùng KTTĐ miền Trung, gồm Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng và Quảng Ngãi. Từ năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đồng ý mở rộng vùng KTTĐ này, thêm tỉnh Bình Định. Như vậy, vùng này có diện tích đất tự nhiên 27.879 km2, dân số (2002) trên 6 triệu người, tức chiếm 8,47% diện tích đất tự nhiên và 7,49% dân số cả nước.

Vùng KTTĐ này có nhiều lợi thế và tiềm năng chưa được khai thác cả về biển, đất liền và rừng núi với nhiều khoáng sản quý hiếm. Thế mạnh của vùng khá nhiều: nằm trên đường quốc lộ 1A huyết mạch chạy suốt từ Bắc vào Nam với hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy, hàng không rất thuận lợi; hệ thống sân bay quốc tế phân bố khắp vùng: Đà Nẵng, Phú Bài, Chu Lai...; các cảng biển lớn như Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Vân Phong... sát đường hàng hải quốc tế, là cửa ngõ đối với vùng Tây Nguyên và nước bạn Lào, Bắc Cam-pu-chia và Đông Bắc Thái Lan.

Đặc trưng kinh tế của vùng là các khu kinh tế biển tổng hợp bao gồm: khu kinh tế mở Chu Lai; khu kinh tế Dung Quất, khu kinh tế Chân Mây, khu kinh tế Nhơn Hội và khu vực Cam Ranh - Vân Phong. So với 2 vùng KTTĐ miền Nam và miền Bắc, vùng KTTĐ miền Trung có kém hơn về kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực, nhưng lại có tiềm năng lớn về cảng biển, trung chuyển lớn, phát triển du lịch nghỉ dưỡng và di sản văn hóa thế giới (6/7 di sản thế giới tại Việt Nam).

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả, tiềm năng và lợi thế, vùng KTTĐ miền Trung cũng còn nhiều hạn chế. Đó là hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là các vùng nông thôn và cả vùng Chân Mây, Dung Quất. Rừng bị tàn phá, nên chỉ còn đất trống, đồi núi trọc. Thời tiết khắc nghiệt, bão lũ về mùa mưa, khô hạn, nắng nóng về mùa hè, trong khi hệ thống các công trình thủy lợi trong vùng đã xuống cấp nên khả năng phòng chống thiên tai rất hạn chế. Kinh tế của vùng còn ở mức thấp, dân cư còn nghèo, chưa có tích lũy. Sản xuất công nghiệp nhỏ bé, manh mún, máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu nhưng chậm đổi mới. Vốn thiếu nên nhiều công trình, dự án đầu tư xây dựng và công tác xóa đói, giảm nghèo trong vùng gặp nhiều khó khăn, chậm tiến độ là phổ biến. Đời sống dân cư, nhất là nông dân, ngư dân, diêm dân còn thấp. Một vấn đề khác đáng quan tâm là phạm vi địa giới của vùng KTTĐ miền Trung còn chưa ổn định. Địa giới của vùng có mở rộng thêm đến 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa hay không còn chưa rõ ràng.

d - Về khả năng liên kết của ba vùng

Từ phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong liên kết của ba vùng KTTĐ trên đây có thể rút ra nhận xét sau:

So với 2 vùng KTTĐ miền Bắc và miền Nam, vùng KTTĐ miền Trung có tiềm năng, thế mạnh về phát triển khu kinh tế biển tổng hợp, phát triển cảng biển trung chuyển và du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.

Vai trò và năng lực liên kết của vùng KTTĐ miền Nam thể hiện khá rõ nét trên nhiều mặt đáng ghi nhận. Những kết quả do vùng KTTĐ miền Nam tạo ra trong vùng đã tạo thêm thế và lực thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các tỉnh vùng Đông Nam Bộ. Vùng này trên thực tế đã trở thành động lực thúc đẩy kinh tế chung của các tỉnh phía Nam và cả nước với nhiều "cái nhất": kinh tế tăng trưởng cao nhất, thu hút vốn FDI nhiều nhất, kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh nhất, thu ngân sách nhiều nhất và GDP bình quân đầu người cao nhất, khu công nghiệp nhiều nhất, thu hút nhiều lao động nhất.

Vùng KTTĐ miền Trung hình thành sau, nhưng lại là vùng có nhiều năng lực liên kết với các vùng và cả nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó rõ nét nhất là vận tải, du lịch, nuôi trồng thuỷ sản. Vùng có nhiều tiềm năng về liên kết kinh tế với nước ngoài, nếu có hệ thống đường giao thông không ngừng được đầu tư và hoàn thiện. Tuy nhiên, đây là vùng nghèo, thiên nhiên không ưu đãi nên trước mắt còn nhiều khó khăn trong liên kết với các vùng và cả nước.

Vùng KTTĐ miền Bắc có nhiều lợi thế và tiềm năng, nhất là chất xám, khoa học - công nghệ và lao động. Trong những năm qua liên kết giữa các tỉnh trong vùng và với các vùng khác của cả nước đã được cải thiện đáng kể, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong vùng theo hướng tiến bộ. So sánh năng lực liên kết của ba vùng KTTĐ tại thời điểm hiện nay, theo chúng tôi, khả quan nhất là vùng KTTĐ miền Nam, thứ hai là vùng KTTĐ miền Trung và thứ ba là vùng KTTĐ miền Bắc. Tuy nhiên, nhược điểm chung của cả ba vùng KTTĐ là sự liên kết còn mang nặng tính tự phát, không theo quy hoạch, không có định hướng, nên kết quả không tương xứng với vai trò và tiềm năng. Vai trò của vùng kinh tế động lực cho các tỉnh trong vùng và cả nước thể hiện chưa đều và chưa vững.

Nguyên nhân có nhiều: Về khách quan, xây dựng vùng KTTĐ là vấn đề mới đối với nước ta, nên chưa có kinh nghiệm trong xây dựng hoàn thiện và tổ chức chỉ đạo. Về chủ quan, công tác nghiên cứu cơ sở lý luận như khái niệm, tiêu chí vùng KTTĐ chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức cả tổ chức cán bộ và kinh phí. Tổ chức chỉ đạo các vùng KTTĐ còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập, trong đó quan trọng nhất là chưa có tổ chức nào chịu trách nhiệm rõ ràng. Công tác quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch vùng KTTĐ cũng còn nhiều hạn chế; phân công phân nhiệm theo dõi, kiểm tra, thu thập thông tin về thực trạng của các vùng còn chưa rõ ràng, thiếu cập nhật. Thiếu thông tin là nhược điểm rõ nét đã và đang gây khó khăn cho công tác xây dựng, kiểm tra, hoàn thiện quy hoạch, cơ chế, chính sách, mở rộng liên kết của 3 vùng với cả nước. Các văn bản pháp lý của chỉ đạo vùng KTTĐ, ngoài các quyết định quy hoạch, không có chính sách, cơ chế chỉ đạo thực hiện của các ngành, các cấp nên rất khó triển khai. Quan hệ phối hợp giữa 3 vùng KTTĐ với Ban chỉ đạo 8 vùng kinh tế và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa rõ ràng cả trong quy hoạch và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Vì vậy, vai trò đầu tàu kinh tế của mỗi vùng và liên kết giữa 3 vùng KTTĐ với cả nước chưa được phát huy.

3 - Một số giải pháp chủ yếu

Trước hết: cần làm rõ khái niệm và tiêu chí vùng KTTĐ và liên kết của vùng. Trên cơ sở thống nhất về khái niệm mới có căn cứ để phân biệt vùng KTTĐ với vùng kinh tế nói chung, mối quan hệ liên kết giữa các tỉnh trong vùng với vùng và giữa vùng với cả nước. Xác định vai trò và chức năng, nhiệm vụ của vùng KTTĐ. Vai trò đó cần được xác định trên nội dung khác nhau từ kinh tế đến xã hội và môi trường. Nhiệm vụ và chức năng của vùng KTTĐ đối với các tỉnh trong vùng cũng như cả nước trong từng thời kỳ kế hoạch 5 năm và chiến lược 10 năm. Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và vai trò liên kết của vùng KTTĐ Chính phủ cần có cơ chế, chính sách để cụ thể hóa các quy hoạch và quyết định đưa quy hoạch vào thực tế của ngành, địa phương có vùng KTTĐ.

- Ổn định phạm vi địa giới hành chính của các vùng KTTĐ của ba miền Bắc, Trung, Nam. Đây là giải pháp quan trọng để ổn định mô hình vùng KTTĐ, làm căn cứ cho việc xây dựng cơ chế, chính sách phát triển và mở rộng mối liên kết kinh tế giữa các tỉnh, thành phố trong vùng, giữa các vùng KTTĐ với nhau cũng như giữa vùng KTTĐ với các vùng và địa phương khác trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở ổn định về phạm vi địa giới hành chính của mỗi vùng, các ngành và địa phương trong từng vùng KTTĐ mới có căn cứ để hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mình; xác định khả năng liên kết kinh tế của địa phương với các tỉnh trong vùng, cũng như các địa phương khác ngoài vùng KTTĐ; khai thác các thế mạnh và tiềm năng của địa phương.

Hoàn thiện bộ máy tổ chức chỉ đạo, quản lý các vùng KTTĐ của cả nước. Tại Quyết định số 20/2004/QĐ-TTg ngày 18-2-2004, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập tổ chức điều phối phát triển các vùng KTTĐ. Vấn đề đặt ra hiện nay là hoàn thiện ban chỉ đạo vùng KTTĐ với sự tham gia của các chuyên gia kinh tế, môi trường, văn hóa, giáo dục, xã hội thuộc nhiều bộ, ngành và viện nghiên cứu ở Trung ương, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì và thường trực. Trên cơ sở hình thành bộ máy tổ chức cần có sự đầu tư cán bộ có năng lực, bố trí kinh phí thỏa đáng cho công tác quản lý, chỉ đạo các vùng KTTĐ thực hiện chức năng thúc đẩy sự liên kết giữa vùng với các vùng khác và cả nước theo đúng vai trò động lực tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của vùng và cả nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước đối với vùng KTTĐ. Bộ Chính trị đã ra các nghị quyết về phát triển 3 vùng KTTĐ Bắc, Trung, Nam. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là các cấp ủy, chính quyền các ngành, các cấp, các địa phương cần quán triệt đầy đủ yêu cầu và các nội dung cơ bản của nghị quyết, từ đó tổ chức chỉ đạo, thực hiện cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.

Cần tập trung vào một số công việc cụ thể có liên quan đến vùng KTTĐ như: hoàn thiện quy hoạch, hoạch định cơ chế,chính sách và hình thành bộ máy tổ chức chỉ đạo bộ máy quản lý, xây dựng phương án đầu tư vốn, khoa học, công nghệ và đào tạo đội ngũ công chức trình độ cao, lao động tay nghề cao cho các vùng KTTĐ. Xác định mối quan hệ giữa các vùng KTTĐ với các vùng kinh tế khác. Theo đó, xác định mối quan hệ giữa ban chỉ đạo các vùng KTTĐ với ban chỉ đạo 8 vùng kinh tế theo địa giới hành chính, với cấp ủy, chính quyền và các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương đối với nhiệm vụ phát triển và mở rộng liên kết giữa vùng KTTĐ với các vùng, các địa phương. Giải pháp này có ý nghĩa quyết định đối với quy mô và tốc độ phát triển của vùng KTTĐ Bắc, Trung, Nam cũng như vai trò liên kết của 3 vùng này với các vùng và địa phương trong cả nước./.
 

Nguyễn Minh Hoài

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (theo Tạp chí Cộng sản)


(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 179

 

Cập nhật ( 28/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
“ Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà?”
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com