Báo cáo đánh giá cuối kỳ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 đã có những đánh giá về sự phát triển và đóng góp của sáu vùng kinh tế của nước ta. Dưới đây xin tóm tắt một số nét chính của báo cáo.
Vùng Trung du miền núi bắc Bộ (bao gồm cả Tây và Đông Bắc) Những năm qua cán bộ, nhân dân vùng đã khai thác lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý là có đường biên giới dài với Trung Quốc và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào để phát triển mạnh những ngành, sản phẩm có tiềm năng và thế mạnh của kinh tế biên mậu. Nhìn một cách tổng thể, cơ cấu nông, lâm nghiệp và thủy sản toàn vùng đang chuyển mạnh sang hướng chăn nuôi và trồng cây công nghiệp. Đã hình thành rõ vùng sản xuất chuyên canh một số cây hàng hóa như: vùng chè tỉnh Thái Nguyên, Lương Sơn (Hòa Bình), Hoàng Xu Phì (Hà Giang), vùng chè – cây ăn quả Mộc Châu (Sơn La)... và bước đầu đã xuất khẩu một số mặt hàng nông sản như chè, gạo, trâu, bò, gà...
Về công nghiệp, từng bước đi vào phát triển những ngành, sản phẩm mà vùng có lợi thế như ngành công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, chế biến nông lâm sản, công nghiệp luyện kim, hóa chất, thủy điện. Toàn vùng đã quy hoạch trên 30 khu công nghiệp (KCN) và trên 100 cụm công nghiệp (CCN). Hiện tại đã có một số KCN đi vào hoạt động như: các KCN Sông Công (Thái Nguyên), Thụy Vân (Phú Thọ), Đình Trám, Quang Châu (Bắc Giang).
Kinh tế cửa khẩu cũng phát triển rõ rệt và đạt được doanh thu lớn. Một số khu kinh tế (KKT) cửa khẩu đã đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và thu hút được nhiều dự án đầu tư, như KKT cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn và cửa khẩu Lào Cai... Hiệu quả kinh tế chung toàn vùng là hàng năm bình quân đóng góp 6,3% GDP của cả nước. Đây là một thành tựu rất đáng ghi nhận của cộng đồng dân cư, doanh nghiệp lập nghiệp ở vùng núi có độ cao và dốc nhất đất nước.
Vùng Đồng bằng sông Hồng trong đó có vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đã phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng, hội nhập kinh tế quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển, đóng góp cao vào thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu của cả nước (21,8% GDP trong giai đoạn 2006 – 2010).
Nông nghiệp của vùng tiếp tục phát triển theo hướng thâm canh, tăng năng suất, tuy nhiên việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng phát triển nền nông nghiệp sinh thái với công nghệ cao và công nghệ sinh học còn chậm.
Về công nghiệp, đã có bước phát triển mạnh, thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước. Song, hiện tại vùng chưa thực sự trở thành trung tâm lớn về phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao như phần mềm, thiết bị tin học, vật liệu mới... như kế hoạch đề ra. Phân bố các khu, CCN cũng chưa hợp lý, nhiều KCN được xây dựng nối đuôi bám theo các quốc lộ (QL) 5, QL 10 sử dụng quá nhiều đất lúa màu mỡ của sản xuất nông nghiệp. Năm năm qua, trên địa bàn vùng đã sắp hoàn thành xây dựng các công trình hạ tầng quy mô lớn như các cầu qua sông Hồng, hệ thống cấp nước sông Đà, đường Láng – Hòa Lạc, QL8, QL12 (đoạn Hà Nội – Vĩnh Yên), đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình (dự kiến đến năm 2010), đã khởi công xây dựng đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, đường sắt Bắc Ninh – Phả Lại. Tuy nhiên hệ thống các tuyến đường xuất phát từ Hà Nội đi các tỉnh trong vùng chậm được nâng cấp mở rộng như QL32, QL3..., mạng lưới giao thông của thủ đô Hà Nội chưa đồng bộ, ách tắc luôn diễn ra trong các quận nội thành và các tuyến đường liên tỉnh.
Vùng Duyên Hải Trung Bộ đóng góp khoảng 14,4% GDP. Đây là vùng có ưu thế để phát triển kinh tế biển, nhất là khai thác và nuôi trồng thủy sản, cảng biển, dịch vụ hàng hải và du lịch biển. Tính đến nay, trên địa bàn đã thành lập 10 KKT ven biển. Trong đó, có một số KKT lớn (như Nghi Sơn, Vũng Áng, Chu Lai, Dung Quất)... đã bắt đầu phát huy hiệu quả đầu tư, thu hút được nhiều dự án quy mô lớn. Nhà máy lọc dầu Dung Quất công suất 6,5 triệu tấn dầu thô/năm đã đi vào hoạt động từ cuối tháng 2-2009. Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn công suất 8,4 triệu tấn dầu thô/năm được khởi công vào tháng 5-2008. Đã triển khai xây dựng nhà máy xử lý quặng tại mỏ sắt Thạch Khê, Dự án khu liên hợp luyện cán thép tại khu kinh tế Vũng Áng công suất 7,5 triệu tấn/năm (giai đoạn I)...
Nông nghiệp của vùng cũng phát triển khá, song không ổn định do ảnh hưởng của thời tiết và dịch bệnh. Ngành nuôi trồng thủy sản tại các địa phương đã phát triển gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Về kết cấu hạ tầng, hầu hết các tuyến trục ngang kết nối phía tây miền trung và Tây Nguyên với các cảng biển và khu kinh tế biển đã được nâng cấp. Cảng Tiên Sa đang đầu tư mở rộng giai đoạn 2. Một số cảng hàng không (CHK) trong vùng hiện đang được nâng cấp và cải tạo như CHK Cam Ranh, CHK quốc tế Đà Nẵng. Sau khi đưa vào sử dụng đường Hồ Chí Minh, các tuyến đường ngang liên tỉnh cũng được xây dựng mở ra cơ hội phát triển mới cho các huyện miền núi, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển giữa miền núi và đồng bằng, cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần ổn định chính trị, bảo đảm an ninh – quốc phòng.
Vùng Tây Nguyên đóng góp khoảng 4,0% GDP của cả nước và là vùng đã có bước tăng trưởng nhanh trên cơ sở phát triển các vùng sản xuất tập trung những loại cây công nghiệp, với sản phẩm xuất khẩu có giá trị cao. Theo số liệu thống kê, hiện tại diện tích cà phê của vùng Tây Nguyên chiếm gần 98% tổng diện tích cà phê cả nước; tương tự, diện tích cao su chiếm từ 22,7 – 23,6%, hồ tiêu 30 – 33%, cây điều 25 – 27%, cây chè chiếm 21,8 – 24,9%.
Một số cơ sở công nghiệp chế biến nông lâm sản quan trọng đóng góp đáng kể vào tăng kim ngạch xuất khẩu của vùng. Trên địa bàn vùng đã và đang hoàn thành nhiều công trình thủy điện lớn như: Đại Ninh, Sê San 3, 3A, 4, 4A, Buôn Kuốp, Plei Krông, Đồng Nai3, Buôn Tua Srah, Srepok 3, An Khê – Kanak, Ea Krông H’năng...
Hoạt động kinh tế cửa khẩu từng bước phát triển. Các KKT cửa khẩu Bờ Y (tỉnh Kon Tum), đường 18 (tỉnh Gia Lai) đang triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, thương mại, dịch vụ sản xuất. Các trạm kiểm soát liên hợp tại cửa khẩu cũng sớm đi vào hoạt động kỷ cương, nền nếp...
Vùng Đông Nam Bộ (trong đó có vùng kinh tế trọng điểm phía Nam) tiếp tục phát huy vai trò đầu tầu tăng trưởng, tạo động lực thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. Đây là vùng đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế, có đóng góp lớn nhất vào thu ngân sách, vào kim ngạch xuất khẩu và đóng góp tới 34,6% GDP giai đoạn 2006 – 2010 của cả nước. Toàn vùng hiện có tới 90 KCN, khu chế xuất (KCX), trong đó các KCN, KCX tại thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương có tỷ lệ lấp đầy khá cao. Kết cấu hạ tầng đô thị được đầu tư mạnh. Tuy nhiên, hiện tại vùng này vẫn còn tình trạng quá tải về giao thông, ngập úng do triều cường. Đây là những vấn đề đang nổi cộm chưa xử lý dứt điểm được.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long đóng góp khoảng 18,9% GDP của cả nước. Vùng tiếp tục là nơi sản xuất lúa, thủy sản, cây ăn quả lớn nhất cả nước, đóng góp nhiều vào sản xuất gạo, thủy sản và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Cụ thể, vùng này đóng góp trên 50% sản lượng thủy sản, gần 70% sản lượng trái cây, trên 90% sản lượng gạo xuất khẩu và trên 60% sản lượng thủy hải sản xuất khẩu của cả nước.
Trên địa bàn vùng đã triển khai được các dự án công nghiệp có quy mô vùng và cả nước như dự án khí – điện – đạm Cà Mau, trung tâm điện lực Ô Môn, hình thành một số cơ sở sản xuất xi - măng lớn tập trung tại Kiên Giang, các nhà máy chế biến thủy hải sản xuất khẩu... Một số sản phẩm công nghiệp của vùng có tốc độ tăng trưởng khá như: xi – măng, thuỷ sản đông lạnh, chế biến thức ăn gia súc, phân bón hóa học, xà phòng, giày dép, nông cụ cầm tay...
Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp cũng sản xuất được một số sản phẩm chủ lực, quy mô lớn như lúa, tôm, cá và các cây ăn quả có múi, nhãn, chôm chôm, măng cụt, sầu riêng ...
Mạng lưới kết cấu hạ tầng trên địa bàn vùng được chú trọng đầu tư nâng cấp, đặc biệt là các tuyến trục giao thông nối các địa phương của vùng với Thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ như QL1 đoạn Cần Thơ – Năm Căn, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương và một số đoạn chính của các tuyến N1, N2, các tuyến Nam Sông Hậu, Quản Lộ - Phụng Hiệp...
Tóm lại, trong bối cảnh phải đối phó với nhiều khó khăn, thách thức từ bên ngoài liên tục ập đến, những thành tựu đã đạt được trên mặt trận kinh tế của nước ta – mà cụ thể là của sáu vùng kinh tế nêu trên – là rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, theo các nhà chuyên môn vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục sớm. Nổi lên là các vùng kinh tế vẫn chưa phát huy được tối đa thế mạnh của toàn vùng. Chưa tạo được mối liên kết để phát triển kinh tế bền vững ngay trong từng vùng. Chính vì thế mà những lợi thế, những tiềm năng, những ưu thế của toàn vùng chưa được khai thác, phát huy. Thực trạng hiện nay của các tỉnh, thành phố trong từng vùng là “chia nhỏ lợi thế” trong không gian quản lý của mình, khép kín việc khai thác những lợi thế ít ỏi đó rồi cùng cạnh tranh, chứ không bổ sung cho nhau để phát huy lợi thế toàn vùng, tạo nên sức mạnh của cả nước. Đây là một tồn tại lớn cần sớm khắc phục, nhất là trong tiến trình hội nhập, mở cửa với các nước trong khu vực và thế giới. Thực tế này cũng đang đặt ra những vấn đề cấp bách trong quản lý vĩ mô mà trước hết là vấn đề quy hoạch vùng nhằm khắc phục tình trạng tính pháp lý chưa cao, chưa có cơ chế ràng buộc, hoặc liên kết thực hiện, dẫn đến khoảng cách giữa quy hoạch và triển khai trong thực tế còn quá xa cả về tiến độ, kết quả và sức thuyết phục tới cộng đồng./.
Bình An (tổng hợp)- theo tapchicongsan,org.vn |