Tuần -14 - Ngày 23/04/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Phát triển Khu công nghiệp
Đổi mới phương thức phát triển KCN
02/05/2013
Vai trò của KCN với sự phát triển kinh tế - xã hội
Tạo ra nền tảng để huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Từ mục tiêu ban đầu là tạo môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển các KCN cũng là một trong những giải pháp để thực hiện chủ trương phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước. Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay, KCN với vai trò thu hút và đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư đã thực sự có đóng góp không nhỏ trong việc huy động nguồn lực vào thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.
Góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng, các địa phương theo hướng CNH, HĐH, góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế chung của cả nước
Thực tiễn xây dựng và phát triển cho thấy, các KCN đã có những đóng góp ngày càng lớn vào việc nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong GDP của cả nước. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng lên đáng kể từ mức khoảng 8% năm 1996 lên 14% năm 2000 và ước tính đến nay, giá trị sản xuất công nghiệp tại các KCN, KCX, chiếm khoảng 34-35% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước.
Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp KCN trên thị trường thế giới được nâng cao đáng kể trong thời gian qua, thể hiện ở giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN tăng đều qua các năm. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng từ mức khoảng 15% năm 2000 lên khoảng 20% năm 2010.
Tiếp nhận công nghệ mới, tập trung ngành nghề mới góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án sản xuất, kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Trong đó, đặc biệt phải kể đến những dự án công nghệ kỹ thuật cao tập trung ở KCN của các thương hiệu lớn như Canon, Samsung, Mabuchi Motor, Orion Hanel..., những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu và cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính xác, điện tử... Các dự án đầu tư nước ngoài vào KCN không những góp phần nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản phẩm của các doanh nghiệp KCN, mà qua mối quan hệ hợp tác đầu tư với nước ngoài, vị thế và sức hấp dẫn đầu tư của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện và góp phần đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực.
Góp phần quan trọng giải quyết việc làm, giải quyết các vấn đề xã hội
Đến nay, các KCN đã thu hút được khoảng trên 1,6 triệu lao động trực tiếp, nếu tính cả số lao động gián tiếp thì số lao động thu hút được còn lớn hơn nhiều.
Nhiều KCN đã xây dựng các cơ sở dạy nghề (Trung tâm dạy nghề Việt Nam - Singapore, Trường Kỹ nghệ Thừa Thiên Huế, Trường Cao đẳng kỹ thuật – công nghệ Biên Hoà…), hình thành mô hình liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực giữa các KCN và nhà trường (Đồng Nai)… KCN tự đào tạo nghề là hướng rất quan trọng để giải quyết tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật hiện nay. Phát triển KCN cũng đồng nghĩa với hình thành và phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, nhất là thị trường lao động trình độ cao ở nước ta. Cạnh tranh và quan hệ cung - cầu lao động diễn ra ở khu vực này cũng rất gay gắt, tạo động lực để lao động không ngừng phấn đấu, nâng cao tay nghề.
KCN có mô hình tổ chức và quản lý nói chung, tổ chức và quản lý nhân lực nói riêng, rất tiên tiến, đạt trình độ quốc tế và đa dạng. Đây là môi trường rất tốt để đào tạo, chuyển giao khoa học quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp của Việt Nam để có thể thay thế dần lao động quản lý người nước ngoài.
Tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng công nghiệp mới, hiện đại, có giá trị lâu dài đồng thời góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng là điều kiện hết sức quan trọng và cấp thiết của nền kinh tế quốc dân. Tại các địa phương có các KCN đã hoàn thành đầu tư cơ bản và đi vào hoạt động, kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ và hoàn thiện thực sự góp phần thay đổi diện mạo của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh thu hút đầu tư vào KCN cũng như thúc đẩy mối liên kết kinh tế ngành và vùng, điển hình là một số tỉnh thuộc Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam như Đồng Nai, Bình Dương...
Tác dụng lan tỏa tích cực tới phát triển các vùng, các ngành, lĩnh vực
KCN mở rộng mối liên kết ngành và liên kết vùng tập trung xung quanh KCN. Liên kết ngành trong KCN bước đầu đã có những kết quả nhất định thực hiện trong phạm vi nội bộ KCN bởi những ngành nghề bổ trợ lẫn nhau.
Các KCN ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hoá, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất.
Hiệu quả này đặc biệt rõ nét ở các KCN thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long, các doanh nghiệp chế biến trong các KCN tại Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Cần Thơ... góp phần tiêu thụ nông sản của các hộ gia đình cơ sở nông nghiệp ở vùng nông thôn xung quanh, cải thiện một bước đời sống nhân dân. Có thể thấy rõ nhất là sức lan tỏa lớn của KCN tại Thành phố Hồ Chí Minh tới các tỉnh lân cận, chuyển các địa phương này từ cơ cấu kinh tế thuần nông sang cơ cấu kinh tế công nghiệp hiện đại. Bên cạnh đó, việc phát triển các KCN có tác động rất rõ rệt đến quá trình quy hoạch, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương nơi KCN đóng và các địa phương lân cận.
Các KCN cũng có tác động lan toả rất lớn đến công nghiệp địa phương. Các dự án đầu tư trong KCN đều là những dự án đầu tư mới, phần lớn được trang bị máy móc, thiết bị thế hệ mới, đồng bộ; có dự án có công nghệ hiện đại, mức độ tự động hoá cao sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt và ổn định tạo áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp khác sản xuất sản phẩm cùng loại phải áp dụng mọi biện pháp để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần giúp công nghiệp địa phương từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu tại chỗ là chính đã vươn ra thị trường cả nước và xuất khẩu.
Một số hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù thành quả phát triển các KCN là không thể phủ nhận, song thực tiễn phát triển cho thấy còn nhiều hạn chế trong phát triển các KCN, các điều kiện để phát triển các KCN chưa được chuẩn bị chu đáo, làm giảm hiệu quả phát triển KCN:
- Tỷ lệ đóng góp của các KCN trong sản lượng công nghiệp cả nước còn thấp, sự phát triển công nghiệp ngoài các KCN còn lớn, chiếm tới trên 65% giá trị sản lượng công nghiệp.
- Xuất hiện tình trạng phát triển KCN quá nóng ở các địa phương có nhiều tiềm năng. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng KCN theo quy hoạch được duyệt chưa được giám sát chặt chẽ, dẫn tới việc các địa phương và chủ đầu tư xây dựng KCN không tuân thủ quy hoạch hoặc không thực hiện các hạng mục công trình theo quy hoạch (như hệ thống xử lý nước thải).
- Công tác chuẩn bị cho sự ra đời của các KCN bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện trên các phương diện: thiếu cán bộ quản lý có năng lực, thiếu đội ngũ lao động lành nghề phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong KCN, thiếu sự chuẩn bị về nội dung mời gọi các nhà đầu tư. KCN được xây dựng ở các địa phương có nội dung hoạt động, lĩnh vực ngành nghề thu hút đầu tư gần giống nhau (chế biến nông sản, may mặc, cơ khí, điện tử...), cho nên khi đi vào sản xuất, chắc chắn sẽ có những sản phẩm giống nhau, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt không cần thiết, có thể dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh làm nản lòng các nhà đầu tư.
Những hạn chế nói trên là do một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
Chất lượng quy hoạch chưa cao, tổ chức thực hiện quy hoạch chưa triệt để tuân thủ các quy định pháp lý
Quy hoạch phát triển KCN ở tầm cả nước mang tính định hướng về bố trí không gian công nghiệp trên cơ sở các định hướng lớn về phát triển các ngành, lĩnh vực trên phạm vi cả nước, vùng kinh tế. Danh mục các KCN dự kiến phát triển trong thời gian qua chủ yếu được xem xét trên cơ sở quy hoạch và đề nghị của địa phương trên cơ sở đánh giá chung về khả năng phát triển trên các vùng lãnh thổ.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật liên vùng còn chưa đồng bộ, thiếu cơ chế vận hành hợp lý làm giảm khả năng cũng như hiệu quả phát triển KCN
Trong nhiều năm qua, hệ thống kết cấu hạ tầng cả nước nói chung được cải thiện đáng kể với lượng đầu tư rất lớn. Nhiều công trình hạ tầng đối ngoại được đầu tư trên các vùng lãnh thổ như đường bộ, cảng biển, sân bay, viễn thông… và đặc biệt là cấp điện. Tuy nhiên, do các công trình hạ tầng đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, lợi ích kinh tế trực tiếp không lớn, thời gian xây dựng kéo dài… làm giảm tính đồng bộ (về không gian và thời gian) dẫn đến làm giảm hiệu quả của hệ thống hạ tầng, trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của các KCN. Hơn nữa nhiều hạng mục đầu tư vượt khỏi không gian của một địa phương, song thiếu sự phối hợp giữa các địa phương cũng làm giảm hiệu quả và tính đồng bộ, làm giảm tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Tình trạng trên xảy ra đối với các hạng mục đầu tư đặc biệt quan trọng ở các vùng kinh tế trọng điểm như đối với các tuyến đường huyết mạch liên tỉnh và đặc biệt là đối với hệ thống cảng biển. Do các công trình đòi hỏi đầu tư lớn, quá trình xây dựng kéo dài, có những hạng mục được hoàn thành trước, trong khi nhiều hạng mục liên quan chưa hoàn thành.
Sự ra đời và vận hành của nhiều KCN tại các vùng này trong thời gian qua cùng với hệ thống hạ tầng chậm được cải thiện làm giảm đáng kể hiệu quả phát triển công nghiệp, đồng thời ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động kinh tế - xã hội khác.
Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn, phức tạp; hiệu quả sử dụng đất KCN còn chưa cao
Thực tế hiện nay còn xuất hiện một số KCN triển khai chậm, thu hút đầu tư thấp vì nhiều lý do chủ quan và khách quan như: công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai chậm và gặp nhiều khó khăn, suất đầu tư quá cao, chồng chéo về quy hoạch hoặc cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN chưa phát triển.
Tại một số địa phương, trong quá trình đền bù giải phóng mặt bằng, thu hồi đất để xây dựng KCN, do sự chậm trễ trong việc phổ biến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tới người dân nên dẫn đến những khiếu kiện, tranh chấp về đất đai ảnh hưởng tới tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng và tiến độ chung của dự án; hoặc do sự chồng chéo trong xây dựng quy hoạch dẫn đến sự lúng túng giữa các cơ quan trong việc triển khai thực hiện quy hoạch KCN.
Việc tái định cư, ổn định và cải thiện đời sống người dân sau khi bị thu hồi đất tại khu vực quy hoạch phát triển KCN còn gặp nhiều khó khăn. Người dân sau thu hồi đất thường gặp phải tình trạng thiếu đất sản xuất, cuộc sống không ổn định... Đặc biệt, một bộ phận người dân sau khi bị thu hồi đất không tìm được việc làm phù hợp hoặc chưa nhận được giúp đỡ của chính quyền địa phương hoặc chưa biết sử dụng tiền đền bù để tái đầu tư vào các ngành nghề phi nông nghiệp nhằm ổn định cuộc sống.
Chưa có sự phối hợp trong phát triển các KCN trên quy mô liên vùng, liên tỉnh
Phần lớn các địa phương đều mong muốn phát triển nhanh các KCN như một giải pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh và chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, ít có sự phối hợp giữa các địa phương tạo ra sự liên kết giữa các KCN trong vùng... tạo thành cụm liên kết các KCN. Các KCN có cơ cấu ngành nghề gần giống nhau, ngoại trừ một số KCN mang tính tổ hợp công nghiệp.
Nhiều địa phương không triển khai lập quy hoạch tổng thể phát triển các KCN trên địa bàn, một số KCN được hình thành trên cơ sở các đề xuất riêng biệt, làm cho các KCN thiếu tính liên kết phối hợp trong tổng thể phát triển các KCN.
Việc hình thành quan hệ liên kết, ngoài những định hướng cơ bản trong quá trình quy hoạch, lập đề án phát triển KCN còn phụ thuộc nhiều vào quá trình kêu gọi và xúc tiến đầu tư. Vì nhiều lý do, trong đó có mục tiêu sớm điền đầy các KCN và thu hút nhiều vốn, mục tiêu tạo ra sự phối hợp, liên kết giữa các KCN và phát triển đồng bộ giữa trong và ngoài KCN phần nào đã bị xem nhẹ.
Nhiều vấn đề xã hội, môi trường phát sinh chưa được giải quyết
Bên cạnh những tác động tích cực của KCN đến phát triển kinh tế, xã hội, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, trong thời gian qua phát triển các KCN còn nhiều hạn chế liên quan đến vấn đề lao động trong các KCN.
Việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp KCN đang gặp mâu thuẫn, đó là thiếu lao động kỹ thuật, có tay nghề trong khi số lao động cần tạo công ăn việc làm còn rất dư thừa. Lực lượng lao động ngoài địa phương có KCN (ngoại tỉnh) rất lớn, gây nhiều khó khăn trong cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản, ổn định đời sống và điều kiện làm việc của người lao động.
Công tác bảo vệ môi trường trong KCN mặc dù đã được chú trọng hơn nhưng đa số các KCN trên phạm vi cả nước nói chung còn chưa được cải thiện nhiều và chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn môi trường theo quy định. KCN là nơi tập trung các cơ sở công nghiệp thuộc các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, cũng là nơi thải ra môi trường các loại chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải nguy hại. Ô nhiễm về nước thải công nghiệp trong các KCN chưa được quan tâm giải quyết thỏa đáng. Khí thải, bụi và tiếng ồn từ các KCN đang gây ô nhiễm môi trường ngày càng tăng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khoẻ của nhân dân quanh vùng.
Khung khổ pháp lý còn có những bất cập
Có thể nói trong nhiều năm qua, chính sách phát triển KCN chậm được đổi mới: trong một thời gian dài các KCN hoạt động trên cơ sở Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ, trong khi nhiều điều khoản trong Nghị định 36/CP bộc lộ nhiều bất cập. Đến 14/3/2008, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP về quản lý nhà nước đối với KCN, KKT mới được ban hành. Nghị định 29 là một bước tiến dài trong tiến trình hoàn thiện quản lý nhà nước về phát triển các KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương triển khai phát triển các KCN, tuy nhiên sau một thời gian thực hiện cũng đã xuất hiện những điều bất cập cần được bổ sung, hoàn thiện.
Bên cạnh đó, tổ chức quản lý phát triển các KCN còn yếu, nhiều quy định pháp lý còn chưa được tuân thủ, đặc biệt là trong bổ sung, điều chỉnh quy hoạch phát triển thành lập và đầu tư phát triển KCN.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức quản lý về KCN còn nhiều hạn chế, thiếu một chiến lược và chương trình đào tạo cán bộ công chức có tính thực tiễn cao, đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi của quá trình CNH, HĐH. Đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy quản lý KCN thiếu hụt về kiến thức lý luận và thực tiễn về phát triển KCN. Đặc biệt ở một số tỉnh, trình độ, năng lực quản lý còn chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn phát sinh tại địa phương và chưa đảm bảo thực hiện thẩm quyền theo ủy quyền.
Đổi mới phương thức phát triển các KCN
Tư duy về phát triển các KCN chậm đổi mới làm hạn chế sự phát triển các KCN. Nhận thức của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp về mối liên hệ chặt chẽ giữa lợi ích kinh tế với lợi ích xã hội trong phát triển của các KCN còn hạn chế; các nhà quản lý ở một số địa phương chưa thực sự ý thức vấn đề bảo vệ môi trường, đảm bảo các vấn đề xã hội như đời sống, nhà ở của người lao động… nhằm mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững KCN dẫn tới việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, pháp luật về lao động của doanh nghiệp còn lỏng lẻo.
Tư duy ban đầu về phát triển các KCN với mục tiêu trọng tâm nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư kéo dài, chậm thay đổi dẫn đến tình trạng nhiều KCN mới thành lập về sau chưa chú trọng đến chất lượng của các dự án đầu tư sản xuất công nghiệp. Đã đến lúc cần phải thay đổi hướng tới việc thu hút đầu tư các dự án công nghiệp có hiệu quả sử dụng đất công nghiệp cao, thâm dụng công nghệ có khả năng cạnh tranh và tạo ra các liên kết công nghiệp hiệu quả (theo hướng hình thành các cluster).
Một điểm quan trọng nữa cần phải thay đổi đó là tư duy phương thức hỗ trợ phát triển các KCN cùng với mong muốn quá mức của các địa phương dẫn đến các quyết định phát triển các KCN ở những nơi chưa có điều kiện nên các KCN đó đầu tư kéo dài, chậm phát huy hiệu quả.
Đổi mới tư duy, nhận thức trong phát triển các KCN cần được thống nhất từ các nhà hoạch định chính sách ở trung ương và địa phương để phù hợp với thực tiễn phát triển. Cần thống nhất nhận thức KCN là một dự án đầu tư quy mô lớn, dài hạn. Đó là việc phát triển có tính toán cho một quãng thời gian dài. Trong tổ chức thực hiện cần kiên trì và cùng hiệp lực thì mới bảo đảm phát huy hiệu quả của nó vì lợi ích của ngành, của địa phương và của nền kinh tế. Đề phòng nguy cơ phát triển kém hiệu quả, lãng phí nguồn lực, hoặc thiên hướng ngược lại, chùn bước, nản chí trước một số khó khăn, trở ngại, thách thức tạm thời trước mắt.
Phát triển KCN cần theo hướng gia tăng hàm lượng kỹ thuật – công nghệ trong sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh khu vực và quốc tế, chuyển dần từ phát triển KCN theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, lựa chọn những ngành công nghệ cao, công nghệ cơ khí, công nghiệp phù trợ.
Về lập và thực hiện quy hoạch phát triển
Công tác lập quy hoạch phát triển các KCN cần được chú trọng hơn nữa ở mọi cấp chính quyền. Cần phân biệt rõ giữa quy hoạch tổng thể phát triển các KCN (thường được xây dựng gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội) và quy hoạch xây dựng (quy hoạch chi tiết) phát triển KCN.
Các khâu từ quy hoạch chi tiết đến quyết định thành lập và tổ chức đầu tư phát triển các KCN rất quyết định đến hiệu quả phát triển các KCN cần được đổi mới. Ngay từ khâu xây dựng quy hoạch phát triển đến khâu tổ chức triển khai xây dựng KCN luôn phải gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững.
KCN là hạt nhân hình thành đô thị hiện đại, do đó trong quá trình lập quy hoạch, tổ chức thực hiện xây dựng KCN phải đảm bảo gắn với phát triển đô thị và phân bố dân cư, cơ sở hạ tầng KCN phải đi trước một bước, cần gắn việc xây dựng hạ tầng trong hàng rào với xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN theo hướng đồng bộ, hiện đại, gắn với sự phát triển đô thị và phân bố dân cư ở các địa phương.
Khi triển khai thực hiện quy hoạch cần tuân thủ nghiêm túc những quy định về phát triển KCN, KCX. Đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về điều kiện, nguyên tắc thành lập cũng như những tiêu chí đánh giá về phát triển các KCN tránh vận dụng sai, gây tác động tiêu cực…
Về tổ chức quản lý, cơ chế, chính sách
Tiếp tục hoàn thiện về quản lý nhà nước đối với phát triển các KCN, KCX, trong đó cần hoàn thiện điều chỉnh Nghị định 29/2008/NĐ-CP về quản lý nhà nước đối với KCN, KCX và KKT và các văn bản chính sách có liên quan. Quy định chặt chẽ hơn về quy hoạch phát triển, các điều kiện thành lập, tổ chức đầu tư phát triển… Quy định rõ các tiêu chí đánh giá hiệu quả phát triển các KCN, KCX thay vì chỉ quan tâm đến tỷ lệ lấp đầy các KCN cần quan tâm tới hiệu quả sản xuất kinh doanh công nghiệp, hiệu quả sử dụng đất công nghiệp. Phân cấp hợp lý trong quản lý phát triển các KCN, hình thành khung chính sách thống nhất, tránh cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương, các KCN; đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính, các chính sách thuế, xuất nhập khẩu, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ tại các KCN.
Điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư theo hướng chú trọng lợi ích lâu dài của KCN, tránh việc chú trọng đến mục đích trước mắt là lấp đầy KCN mà chưa xác định rõ và có chọn lọc ngành nghề đầu tư vào KCN phù hợp với lợi thế, tiềm năng và quy hoạch ngành công nghiệp của địa phương, dẫn đến phần lớn các KCN là đa ngành và giảm tính liên kết ngành trong một KCN hoặc giữa các KCN ở các địa phương với nhau.
Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ”, tăng cường mối liên hệ giữa Ban quản lý, doanh nghiệp hạ tầng và doanh nghiệp KCN theo hướng đảm bảo một đầu mối giải quyết, đồng thời có sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các đơn vị trong phối hợp.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực gồm cán bộ quản lý KCN các cấp theo chương trình, chiến lược đào tạo cụ thể. Đồng thời các địa phương cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp và quản lý việc đào tạo, dạy nghề đáp ứng nhu cầu của KCN.
Nguyễn Văn Vịnh – Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nguồn: Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Ta phải giữ lấy cốt cách dân tộc, còn phương Đông hay phương Tây có cái gì hay, cái gì tốt phải học lấy để tạo ra nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hoá xưa và văn hoá nay, trau dồi cho văn hoá Việt Nam thật có tinh thần thuần tuý Việt Nam để kết hợp với tinh thần dân chủ. ”

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com