Vai trò của KCN với sự phát triển kinh tế - xã hội
Tạo ra nền tảng để huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Từ mục tiêu ban đầu là tạo môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển các KCN cũng là một trong những giải pháp để thực hiện chủ trương phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước. Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay, KCN với vai trò thu hút và đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư đã thực sự có đóng góp không nhỏ trong việc huy động nguồn lực vào thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.
Góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng, các địa phương theo hướng CNH, HĐH, góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế chung của cả nước
Thực tiễn xây dựng và phát triển cho thấy, các KCN đã có những đóng góp ngày càng lớn vào việc nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong GDP của cả nước. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng lên đáng kể từ mức khoảng 8% năm 1996 lên 14% năm 2000 và ước tính đến nay, giá trị sản xuất công nghiệp tại các KCN, KCX, chiếm khoảng 34-35% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước.
Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp KCN trên thị trường thế giới được nâng cao đáng kể trong thời gian qua, thể hiện ở giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN tăng đều qua các năm. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng từ mức khoảng 15% năm 2000 lên khoảng 20% năm 2010.
Tiếp nhận công nghệ mới, tập trung ngành nghề mới góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án sản xuất, kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Trong đó, đặc biệt phải kể đến những dự án công nghệ kỹ thuật cao tập trung ở KCN của các thương hiệu lớn như Canon, Samsung, Mabuchi Motor, Orion Hanel..., những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu và cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính xác, điện tử... Các dự án đầu tư nước ngoài vào KCN không những góp phần nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản phẩm của các doanh nghiệp KCN, mà qua mối quan hệ hợp tác đầu tư với nước ngoài, vị thế và sức hấp dẫn đầu tư của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện và góp phần đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực.
Góp phần quan trọng giải quyết việc làm, giải quyết các vấn đề xã hội
Đến nay, các KCN đã thu hút được khoảng trên 1,6 triệu lao động trực tiếp, nếu tính cả số lao động gián tiếp thì số lao động thu hút được còn lớn hơn nhiều.
Nhiều KCN đã xây dựng các cơ sở dạy nghề (Trung tâm dạy nghề Việt Nam - Singapore, Trường Kỹ nghệ Thừa Thiên Huế, Trường Cao đẳng kỹ thuật – công nghệ Biên Hoà…), hình thành mô hình liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực giữa các KCN và nhà trường (Đồng Nai)… KCN tự đào tạo nghề là hướng rất quan trọng để giải quyết tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật hiện nay. Phát triển KCN cũng đồng nghĩa với hình thành và phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, nhất là thị trường lao động trình độ cao ở nước ta. Cạnh tranh và quan hệ cung - cầu lao động diễn ra ở khu vực này cũng rất gay gắt, tạo động lực để lao động không ngừng phấn đấu, nâng cao tay nghề.
KCN có mô hình tổ chức và quản lý nói chung, tổ chức và quản lý nhân lực nói riêng, rất tiên tiến, đạt trình độ quốc tế và đa dạng. Đây là môi trường rất tốt để đào tạo, chuyển giao khoa học quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp của Việt Nam để có thể thay thế dần lao động quản lý người nước ngoài.
Tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng công nghiệp mới, hiện đại, có giá trị lâu dài đồng thời góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng là điều kiện hết sức quan trọng và cấp thiết của nền kinh tế quốc dân. Tại các địa phương có các KCN đã hoàn thành đầu tư cơ bản và đi vào hoạt động, kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ và hoàn thiện thực sự góp phần thay đổi diện mạo của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh thu hút đầu tư vào KCN cũng như thúc đẩy mối liên kết kinh tế ngành và vùng, điển hình là một số tỉnh thuộc Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam như Đồng Nai, Bình Dương...
Tác dụng lan tỏa tích cực tới phát triển các vùng, các ngành, lĩnh vực
KCN mở rộng mối liên kết ngành và liên kết vùng tập trung xung quanh KCN. Liên kết ngành trong KCN bước đầu đã có những kết quả nhất định thực hiện trong phạm vi nội bộ KCN bởi những ngành nghề bổ trợ lẫn nhau.
Các KCN ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hoá, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất.
Hiệu quả này đặc biệt rõ nét ở các KCN thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long, các doanh nghiệp chế biến trong các KCN tại Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Cần Thơ... góp phần tiêu thụ nông sản của các hộ gia đình cơ sở nông nghiệp ở vùng nông thôn xung quanh, cải thiện một bước đời sống nhân dân. Có thể thấy rõ nhất là sức lan tỏa lớn của KCN tại Thành phố Hồ Chí Minh tới các tỉnh lân cận, chuyển các địa phương này từ cơ cấu kinh tế thuần nông sang cơ cấu kinh tế công nghiệp hiện đại. Bên cạnh đó, việc phát triển các KCN có tác động rất rõ rệt đến quá trình quy hoạch, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phương nơi KCN đóng và các địa phương lân cận.
Các KCN cũng có tác động lan toả rất lớn đến công nghiệp địa phương. Các dự án đầu tư trong KCN đều là những dự án đầu tư mới, phần lớn được trang bị máy móc, thiết bị thế hệ mới, đồng bộ; có dự án có công nghệ hiện đại, mức độ tự động hoá cao sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt và ổn định tạo áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp khác sản xuất sản phẩm cùng loại phải áp dụng mọi biện pháp để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần giúp công nghiệp địa phương từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu tại chỗ là chính đã vươn ra thị trường cả nước và xuất khẩu.
Một số hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù thành quả phát triển các KCN là không thể phủ nhận, song thực tiễn phát triển cho thấy còn nhiều hạn chế trong phát triển các KCN, các điều kiện để phát triển các KCN chưa được chuẩn bị chu đáo, làm giảm hiệu quả phát triển KCN:
- Tỷ lệ đóng góp của các KCN trong sản lượng công nghiệp cả nước còn thấp, sự phát triển công nghiệp ngoài các KCN còn lớn, chiếm tới trên 65% giá trị sản lượng công nghiệp.
- Xuất hiện tình trạng phát triển KCN quá nóng ở các địa phương có nhiều tiềm năng. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng KCN theo quy hoạch được duyệt chưa được giám sát chặt chẽ, dẫn tới việc các địa phương và chủ đầu tư xây dựng KCN không tuân thủ quy hoạch hoặc không thực hiện các hạng mục công trình theo quy hoạch (như hệ thống xử lý nước thải).
- Công tác chuẩn bị cho sự ra đời của các KCN bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện trên các phương diện: thiếu cán bộ quản lý có năng lực, thiếu đội ngũ lao động lành nghề phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong KCN, thiếu sự chuẩn bị về nội dung mời gọi các nhà đầu tư. KCN được xây dựng ở các địa phương có nội dung hoạt động, lĩnh vực ngành nghề thu hút đầu tư gần giống nhau (chế biến nông sản, may mặc, cơ khí, điện tử...), cho nên khi đi vào sản xuất, chắc chắn sẽ có những sản phẩm giống nhau, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt không cần thiết, có thể dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh làm nản lòng các nhà đầu tư.
Những hạn chế nói trên là do một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
Chất lượng quy hoạch chưa cao, tổ chức thực hiện quy hoạch chưa triệt để tuân thủ các quy định pháp lý
Quy hoạch phát triển KCN ở tầm cả nước mang tính định hướng về bố trí không gian công nghiệp trên cơ sở các định hướng lớn về phát triển các ngành, lĩnh vực trên phạm vi cả nước, vùng kinh tế. Danh mục các KCN dự kiến phát triển trong thời gian qua chủ yếu được xem xét trên cơ sở quy hoạch và đề nghị của địa phương trên cơ sở đánh giá chung về khả năng phát triển trên các vùng lãnh thổ.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật liên vùng còn chưa đồng bộ, thiếu cơ chế vận hành hợp lý làm giảm khả năng cũng như hiệu quả phát triển KCN
Trong nhiều năm qua, hệ thống kết cấu hạ tầng cả nước nói chung được cải thiện đáng kể với lượng đầu tư rất lớn. Nhiều công trình hạ tầng đối ngoại được đầu tư trên các vùng lãnh thổ như đường bộ, cảng biển, sân bay, viễn thông… và đặc biệt là cấp điện. Tuy nhiên, do các công trình hạ tầng đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, lợi ích kinh tế trực tiếp không lớn, thời gian xây dựng kéo dài… làm giảm tính đồng bộ (về không gian và thời gian) dẫn đến làm giảm hiệu quả của hệ thống hạ tầng, trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của các KCN. Hơn nữa nhiều hạng mục đầu tư vượt khỏi không gian của một địa phương, song thiếu sự phối hợp giữa các địa phương cũng làm giảm hiệu quả và tính đồng bộ, làm giảm tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Tình trạng trên xảy ra đối với các hạng mục đầu tư đặc biệt quan trọng ở các vùng kinh tế trọng điểm như đối với các tuyến đường huyết mạch liên tỉnh và đặc biệt là đối với hệ thống cảng biển. Do các công trình đòi hỏi đầu tư lớn, quá trình xây dựng kéo dài, có những hạng mục được hoàn thành trước, trong khi nhiều hạng mục liên quan chưa hoàn thành.
Sự ra đời và vận hành của nhiều KCN tại các vùng này trong thời gian qua cùng với hệ thống hạ tầng chậm được cải thiện làm giảm đáng kể hiệu quả phát triển công nghiệp, đồng thời ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động kinh tế - xã hội khác.
Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn, phức tạp; hiệu quả sử dụng đất KCN còn chưa cao
Thực tế hiện nay còn xuất hiện một số KCN triển khai chậm, thu hút đầu tư thấp vì nhiều lý do chủ quan và khách quan như: công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai chậm và gặp nhiều khó khăn, suất đầu tư quá cao, chồng chéo về quy hoạch hoặc cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN chưa phát triển.
Tại một số địa phương, trong quá trình đền bù giải phóng mặt bằng, thu hồi đất để xây dựng KCN, do sự chậm trễ trong việc phổ biến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tới người dân nên dẫn đến những khiếu kiện, tranh chấp về đất đai ảnh hưởng tới tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng và tiến độ chung của dự án; hoặc do sự chồng chéo trong xây dựng quy hoạch dẫn đến sự lúng túng giữa các cơ quan trong việc triển khai thực hiện quy hoạch KCN.
Việc tái định cư, ổn định và cải thiện đời sống người dân sau khi bị thu hồi đất tại khu vực quy hoạch phát triển KCN còn gặp nhiều khó khăn. Người dân sau thu hồi đất thường gặp phải tình trạng thiếu đất sản xuất, cuộc sống không ổn định... Đặc biệt, một bộ phận người dân sau khi bị thu hồi đất không tìm được việc làm phù hợp hoặc chưa nhận được giúp đỡ của chính quyền địa phương hoặc chưa biết sử dụng tiền đền bù để tái đầu tư vào các ngành nghề phi nông nghiệp nhằm ổn định cuộc sống.
Chưa có sự phối hợp trong phát triển các KCN trên quy mô liên vùng, liên tỉnh
Phần lớn các địa phương đều mong muốn phát triển nhanh các KCN như một giải pháp cơ bản để thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh và chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, ít có sự phối hợp giữa các địa phương tạo ra sự liên kết giữa các KCN trong vùng... tạo thành cụm liên kết các KCN. Các KCN có cơ cấu ngành nghề gần giống nhau, ngoại trừ một số KCN mang tính tổ hợp công nghiệp.
Nhiều địa phương không triển khai lập quy hoạch tổng thể phát triển các KCN trên địa bàn, một số KCN được hình thành trên cơ sở các đề xuất riêng biệt, làm cho các KCN thiếu tính liên kết phối hợp trong tổng thể phát triển các KCN.
Việc hình thành quan hệ liên kết, ngoài những định hướng cơ bản trong quá trình quy hoạch, lập đề án phát triển KCN còn phụ thuộc nhiều vào quá trình kêu gọi và xúc tiến đầu tư. Vì nhiều lý do, trong đó có mục tiêu sớm điền đầy các KCN và thu hút nhiều vốn, mục tiêu tạo ra sự phối hợp, liên kết giữa các KCN và phát triển đồng bộ giữa trong và ngoài KCN phần nào đã bị xem nhẹ.
Nhiều vấn đề xã hội, môi trường phát sinh chưa được giải quyết
Bên cạnh những tác động tích cực của KCN đến phát triển kinh tế, xã hội, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, trong thời gian qua phát triển các KCN còn nhiều hạn chế liên quan đến vấn đề lao động trong các KCN.
Việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp KCN đang gặp mâu thuẫn, đó là thiếu lao động kỹ thuật, có tay nghề trong khi số lao động cần tạo công ăn việc làm còn rất dư thừa. Lực lượng lao động ngoài địa phương có KCN (ngoại tỉnh) rất lớn, gây nhiều khó khăn trong cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản, ổn định đời sống và điều kiện làm việc của người lao động.
Công tác bảo vệ môi trường trong KCN mặc dù đã được chú trọng hơn nhưng đa số các KCN trên phạm vi cả nước nói chung còn chưa được cải thiện nhiều và chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn môi trường theo quy định. KCN là nơi tập trung các cơ sở công nghiệp thuộc các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, cũng là nơi thải ra môi trường các loại chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải nguy hại. Ô nhiễm về nước thải công nghiệp trong các KCN chưa được quan tâm giải quyết thỏa đáng. Khí thải, bụi và tiếng ồn từ các KCN đang gây ô nhiễm môi trường ngày càng tăng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khoẻ của nhân dân quanh vùng.
Khung khổ pháp lý còn có những bất cập
Có thể nói trong nhiều năm qua, chính sách phát triển KCN chậm được đổi mới: trong một thời gian dài các KCN hoạt động trên cơ sở Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ, trong khi nhiều điều khoản trong Nghị định 36/CP bộc lộ nhiều bất cập. Đến 14/3/2008, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP về quản lý nhà nước đối với KCN, KKT mới được ban hành. Nghị định 29 là một bước tiến dài trong tiến trình hoàn thiện quản lý nhà nước về phát triển các KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương triển khai phát triển các KCN, tuy nhiên sau một thời gian thực hiện cũng đã xuất hiện những điều bất cập cần được bổ sung, hoàn thiện.
Bên cạnh đó, tổ chức quản lý phát triển các KCN còn yếu, nhiều quy định pháp lý còn chưa được tuân thủ, đặc biệt là trong bổ sung, điều chỉnh quy hoạch phát triển thành lập và đầu tư phát triển KCN.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức quản lý về KCN còn nhiều hạn chế, thiếu một chiến lược và chương trình đào tạo cán bộ công chức có tính thực tiễn cao, đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi của quá trình CNH, HĐH. Đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy quản lý KCN thiếu hụt về kiến thức lý luận và thực tiễn về phát triển KCN. Đặc biệt ở một số tỉnh, trình độ, năng lực quản lý còn chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn phát sinh tại địa phương và chưa đảm bảo thực hiện thẩm quyền theo ủy quyền.
Đổi mới phương thức phát triển các KCN
Tư duy về phát triển các KCN chậm đổi mới làm hạn chế sự phát triển các KCN. Nhận thức của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp về mối liên hệ chặt chẽ giữa lợi ích kinh tế với lợi ích xã hội trong phát triển của các KCN còn hạn chế; các nhà quản lý ở một số địa phương chưa thực sự ý thức vấn đề bảo vệ môi trường, đảm bảo các vấn đề xã hội như đời sống, nhà ở của người lao động… nhằm mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững KCN dẫn tới việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, pháp luật về lao động của doanh nghiệp còn lỏng lẻo.
Tư duy ban đầu về phát triển các KCN với mục tiêu trọng tâm nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư kéo dài, chậm thay đổi dẫn đến tình trạng nhiều KCN mới thành lập về sau chưa chú trọng đến chất lượng của các dự án đầu tư sản xuất công nghiệp. Đã đến lúc cần phải thay đổi hướng tới việc thu hút đầu tư các dự án công nghiệp có hiệu quả sử dụng đất công nghiệp cao, thâm dụng công nghệ có khả năng cạnh tranh và tạo ra các liên kết công nghiệp hiệu quả (theo hướng hình thành các cluster).
Một điểm quan trọng nữa cần phải thay đổi đó là tư duy phương thức hỗ trợ phát triển các KCN cùng với mong muốn quá mức của các địa phương dẫn đến các quyết định phát triển các KCN ở những nơi chưa có điều kiện nên các KCN đó đầu tư kéo dài, chậm phát huy hiệu quả.
Đổi mới tư duy, nhận thức trong phát triển các KCN cần được thống nhất từ các nhà hoạch định chính sách ở trung ương và địa phương để phù hợp với thực tiễn phát triển. Cần thống nhất nhận thức KCN là một dự án đầu tư quy mô lớn, dài hạn. Đó là việc phát triển có tính toán cho một quãng thời gian dài. Trong tổ chức thực hiện cần kiên trì và cùng hiệp lực thì mới bảo đảm phát huy hiệu quả của nó vì lợi ích của ngành, của địa phương và của nền kinh tế. Đề phòng nguy cơ phát triển kém hiệu quả, lãng phí nguồn lực, hoặc thiên hướng ngược lại, chùn bước, nản chí trước một số khó khăn, trở ngại, thách thức tạm thời trước mắt.
Phát triển KCN cần theo hướng gia tăng hàm lượng kỹ thuật – công nghệ trong sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh khu vực và quốc tế, chuyển dần từ phát triển KCN theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, lựa chọn những ngành công nghệ cao, công nghệ cơ khí, công nghiệp phù trợ.
Về lập và thực hiện quy hoạch phát triển
Công tác lập quy hoạch phát triển các KCN cần được chú trọng hơn nữa ở mọi cấp chính quyền. Cần phân biệt rõ giữa quy hoạch tổng thể phát triển các KCN (thường được xây dựng gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội) và quy hoạch xây dựng (quy hoạch chi tiết) phát triển KCN.
Các khâu từ quy hoạch chi tiết đến quyết định thành lập và tổ chức đầu tư phát triển các KCN rất quyết định đến hiệu quả phát triển các KCN cần được đổi mới. Ngay từ khâu xây dựng quy hoạch phát triển đến khâu tổ chức triển khai xây dựng KCN luôn phải gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững.
KCN là hạt nhân hình thành đô thị hiện đại, do đó trong quá trình lập quy hoạch, tổ chức thực hiện xây dựng KCN phải đảm bảo gắn với phát triển đô thị và phân bố dân cư, cơ sở hạ tầng KCN phải đi trước một bước, cần gắn việc xây dựng hạ tầng trong hàng rào với xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN theo hướng đồng bộ, hiện đại, gắn với sự phát triển đô thị và phân bố dân cư ở các địa phương.
Khi triển khai thực hiện quy hoạch cần tuân thủ nghiêm túc những quy định về phát triển KCN, KCX. Đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về điều kiện, nguyên tắc thành lập cũng như những tiêu chí đánh giá về phát triển các KCN tránh vận dụng sai, gây tác động tiêu cực…
Về tổ chức quản lý, cơ chế, chính sách
Tiếp tục hoàn thiện về quản lý nhà nước đối với phát triển các KCN, KCX, trong đó cần hoàn thiện điều chỉnh Nghị định 29/2008/NĐ-CP về quản lý nhà nước đối với KCN, KCX và KKT và các văn bản chính sách có liên quan. Quy định chặt chẽ hơn về quy hoạch phát triển, các điều kiện thành lập, tổ chức đầu tư phát triển… Quy định rõ các tiêu chí đánh giá hiệu quả phát triển các KCN, KCX thay vì chỉ quan tâm đến tỷ lệ lấp đầy các KCN cần quan tâm tới hiệu quả sản xuất kinh doanh công nghiệp, hiệu quả sử dụng đất công nghiệp. Phân cấp hợp lý trong quản lý phát triển các KCN, hình thành khung chính sách thống nhất, tránh cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương, các KCN; đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính, các chính sách thuế, xuất nhập khẩu, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ tại các KCN.
Điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư theo hướng chú trọng lợi ích lâu dài của KCN, tránh việc chú trọng đến mục đích trước mắt là lấp đầy KCN mà chưa xác định rõ và có chọn lọc ngành nghề đầu tư vào KCN phù hợp với lợi thế, tiềm năng và quy hoạch ngành công nghiệp của địa phương, dẫn đến phần lớn các KCN là đa ngành và giảm tính liên kết ngành trong một KCN hoặc giữa các KCN ở các địa phương với nhau.
Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ”, tăng cường mối liên hệ giữa Ban quản lý, doanh nghiệp hạ tầng và doanh nghiệp KCN theo hướng đảm bảo một đầu mối giải quyết, đồng thời có sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các đơn vị trong phối hợp.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực gồm cán bộ quản lý KCN các cấp theo chương trình, chiến lược đào tạo cụ thể. Đồng thời các địa phương cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp và quản lý việc đào tạo, dạy nghề đáp ứng nhu cầu của KCN.
Nguyễn Văn Vịnh – Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nguồn: Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam |