Tuần -15 - Ngày 19/04/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Điểm tin
Nâng cao trình độ công nghệ - phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam
12/04/2014

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định giải pháp hàng đầu để thực hiện các mục tiêu phát triển là “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường”. Vấn đề là làm thế nào để xây dựng và phát huy được nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước?

Khoa học, công nghệ chưa thật sự thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản về phát triển công nghệ ở Việt Nam. Đây là cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để tạo dựng môi trường công nghệ cho nguồn lực trí tuệ phát triển. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã đề ra định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ: “Đến nǎm 2020 đạt trình độ công nghệ tiên tiến trong khu vực ở các ngành kinh tế trọng điểm như công nghệ sinh học, sản xuất lương thực, chế biến nông - lâm - hải sản, cơ khí điện tử, công nghệ thông tin, bưu chính - viễn thông, khai thác và chế biến dầu khí, giao thông vận tải, xây dựng, vật liệu cơ bản, sản xuất và sử dụng nǎng lượng, y dược. Phát triển một số ngành công nghiệp biển. Ứng dụng có chọn lọc các thành tựu khoa học hiện đại nhằm tiếp cận với trình độ thế giới trong một số lĩnh vực quan trọng, làm cơ sở vững chắc cho phát triển các nghành công nghiệp hiện đại”(1).

Quyết định số 272/2003/QĐ-TTg, ngày 31-12-2003, của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 đã xác định: “Trong điều kiện của nước ta hiện nay, cần lấy nhập công nghệ từ các nước phát triển là chủ yếu nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế - kỹ thuật; đồng thời nâng cao năng lực khoa học và công nghệ nội sinh để tiếp thu có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới. Đổi mới cơ chế quản lý nhằm khai thác tối đa năng lực khoa học và công nghệ hiện có trong nước, vừa tranh thủ tiếp thu, ứng dụng nhanh chóng và có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới”(2).

Sau hơn 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ, thực trạng công nghệ của Việt Nam hiện nay được Đại hội XI của Đảng chỉ rõ, “Khoa học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy, chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường khoa học, công nghệ còn sơ khai, chưa tạo sự gắn kết có hiệu quả giữa nghiên cứu với đào tạo và sản xuất kinh doanh. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, sử dụng chưa hiệu quả. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu, đổi mới chậm”(3).

Báo cáo Cạnh tranh toàn cầu (2010 - 2011) của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) cho thấy, trình độ công nghệ của Việt Nam còn thấp hơn nhiều nước Đông Nam Á và chưa thể so với các nước Đông Á. Với trình độ công nghệ như vậy, nhu cầu về lực lượng trí tuệ nước ta sẽ không cao, vì thế, xã hội sẽ thiếu động lực đầu tư xây dựng lực lượng lao động trí tuệ; mặt khác, nếu có xây dựng được thì giá trị của lực lượng lao động trí tuệ Việt Nam cũng không thể phát huy được. Vấn đề ở đây chính là phải nâng cao trình độ công nghệ của Việt Nam một cách hợp lý.

Định hướng chiến lược phát triển công nghệ

Tại Đại hội XI, Đảng ta xác định 3 nhiệm vụ cơ bản về phát triển khoa học, công nghệ: “nâng cao năng lực khoa học, công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng”(4). Để thực hiện được những vụ này, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, cần lựa chọn đúng định hướng chiến lược phát triển công nghệ. Hiện nay, các chuyên gia đã xác định có 6 định hướng chiến lược phát triển công nghệ: 1- Chiến lược dẫn đầu công nghệ bằng Research & Development - Nghiên cứu và Phát triển (R&D); 2- Chiến lược dẫn đầu công nghệ bằng cách đi mua; 3- Chiến lược theo sát công nghệ bằng R&D; 4- Chiến lược theo sát công nghệ bằng cách đi mua; 5- Chiến lược tự nghiên cứu và phát triển công nghệ; 6- Chiến lược liên tục học tập và sáng tạo công nghệ (5).

Hơn 10 năm qua, với mong muốn “đi tắt, đón đầu”, Việt Nam đã ưu tiên lựa chọn giải pháp “lấy ứng dụng, chuyển giao công nghệ là chính”. Nói cách khác, quan điểm ưu tiên đi mua công nghệ là rõ ràng và nhất quán. Nhà nước đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi để thu hút các tập đoàn công nghiệp có trình độ công nghệ cao của nước ngoài vào đầu tư ở Việt Nam với hy vọng qua đó tiến hành chuyển giao công nghệ mới, phát triển hệ thống nghiên cứu và phát triển (R&D). Nhưng, cho tới nay, điều mà chúng ta mong muốn vẫn không xảy ra hoặc có chăng chỉ dừng lại ở mức độ cầm chừng. Ngoài một số công ty có chiến lược đầu tư và sản xuất tương đối bài bản và thực sự có thành ý với sự phát triển của ta thì không ít các công ty, tập đoàn khác chỉ lợi dụng những chính sách ưu tiên của Nhà nước Việt Nam để thu lợi.

Với xuất phát điểm trình độ công nghệ thấp, tiềm lực tài chính có hạn, việc lựa chọn chiến lược phát triển công nghệ của chúng ta thật khó khăn. Việt Nam khó có thể lựa chọn chiến lược dẫn đầu công nghệ dù là thông qua con đường R&D hay đi mua (chiến lược 1 và 2). Chiến lược theo sát công nghệ bằng cách đi mua (4) cũng không thể là chiến lược then chốt. Các chiến lược (3), (5) và (6) có vẻ khả thi hơn. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định điều này: “Hướng mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ... Kết hợp chặt chẽ nghiên cứu và phát triển trong nước với tiếp nhận công nghệ nước ngoài”(6). Như vậy, định hướng phát triển công nghệ hiện nay đã được Đảng ta xác định là tập trung vào phát triển công nghệ theo tinh thần chung là “tự lực cánh sinh”. Đây là một sự chuyển hướng đúng đắn và kịp thời. Tuy nhiên, với đặc điểm tư duy truyền thống không mạnh về tư duy lô-gic, tư duy sáng tạo lý thuyết, với chất lượng giáo dục Việt Nam, với khả năng đầu tư kinh phí lớn, kéo dài cho nghiên cứu cơ bản về các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học - kỹ thuật, và cả với năng lực quản lý phát triển công nghệ hiện nay thì việc lựa chọn chiến lược tự lực cánh sinh cũng đòi hỏi phải dựa trên nền tảng là sự thống nhất nhận thức và quyết tâm cao độ của toàn xã hội vì tiền đồ chung của dân tộc, phải dựa trên một lộ trình hợp lý, phải có cơ quan chuyên trách chỉ đạo sáng suốt, nhất quán và công tâm thì mới thành công.

Thứ hai, thực tế so sánh các chỉ số liên quan đến trình độ công nghệ mà báo cáo Cạnh tranh toàn cầu 2010 - 2011 của WEF đưa ra cho thấy, dù là lựa chọn chiến lược phát triển nào, các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á đã thành công trong chiến lược phát triển đều đạt điểm khá cao trên hầu hết các chỉ số. Điều đó có nghĩa là nếu lựa chọn định hướng tự phát triển công nghệ thì sự đầu tư cho phát triển công nghệ phải là sự đầu tư một cách toàn diện.

Trước hết là phải đầu tư nâng cao chỉ số xếp hạng về chất lượng giáo dục toán và các khoa học tự nhiên, khoa học - kỹ thuật. Đây chính là nền móng của mọi sáng tạo công nghệ. Cần phải thay đổi tư duy về nghiên cứu và giáo dục khoa học cơ bản, trong đó có toán và khoa học tự nhiên, khoa học - kỹ thuật. Không thể đối xử với khoa học cơ bản giống như các khoa học ứng dụng khác, không thể buộc khoa học cơ bản phải tồn tại theo cách chạy theo nhu cầu của thị trường. Nhà nước cần phải coi việc đầu tư cho nghiên cứu và giáo dục khoa học cơ bản phải là trách nhiệm của Nhà nước. Đây là một bài học mà chúng ta đúc rút được từ kinh nghiệm thành công của các quốc gia tiên phong về công nghệ.

Đồng thời, cần phải nâng cao chỉ số xếp hạng về chất lượng của các thiết chế nghiên cứu khoa học, các thiết chế hoạt động R&D. Ngoài thiết chế trường đại học, còn phải chú ý tới các loại thiết chế nghiên cứu khoa học, hoạt động R&D, đang xuất hiện một cách phong phú, đa dạng trong xã hội. Nhà nước cần tạo dựng một hành lang pháp lý thuận lợi và các điều kiện ưu đãi nhằm khuyến khích sự ra đời và hoạt động của các thiết chế này, cho dù đó là các thiết chế thuộc các cơ quan nhà nước, hay là các thiết chế xã hội. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 119/1999/NĐ-CP, ngày 18-9-1999, về một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ. Những chính sách ưu đãi đi cùng với Nghị định ấy đã phát huy những tác dụng nhất định. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ, nghiên cứu và phát triển là hoạt động mạo hiểm: Thứ nhất, đầu tư lớn mà khó/không chắc/lâu thu được kết quả; Thứ hai, khả năng thu hồi vốn thấp do “tuổi thọ” của các phát minh, sáng chế ngày càng ngắn, giá trị sử dụng không thể có tính độc quyền, nguy cơ bị mất quyền sở hữu rất lớn. Chính vì thế, vai trò hỗ trợ của Nhà nước xét trên các phương diện từ thể chế đến tài chính đối với các thiết chế này là vô cùng quan trọng.

Nhà nước cũng cần tạo các điều kiện phát triển mối quan hệ giữa các trường đại học và các ngành công nghiệp (tức là nâng cao chỉ số University - Industry Collaboration in A&D). Các trường đại học thì hỗ trợ công nghệ, đào tạo, bồi dưỡng nhân viên cho các doanh nghiệp, còn các doanh nghiệp thì đầu tư kinh phí cho hoạt động của trường đại học. Tăng cường quan hệ giữa trường đại học và doanh nghiệp chính là gắn kết giữa cung và cầu, giữa nghiên cứu và ứng dụng, là cơ chế huy động các nguồn lực cho giáo dục, đào tạo lao động trí tuệ.

Ngoài việc tăng đầu tư ngân sách, có chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động R&D và việc ứng dụng các sản phẩm của nó, cần phát triển mạnh các Quỹ đầu tư mạo hiểm. Ngày 20-10-2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 122/2003/NĐ-CP về thành lập Quỹ phát triển khoa học, công nghệ quốc gia; ngày 16-5-2007, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 36/2007/QĐ-BTC về quy chế tổ chức và hoạt động của quỹ phát triển khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng cho sự hình thành và phát triển các Quỹ đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, ở Việt Nam các Quỹ đầu tư mạo hiểm chưa thực sự phát triển, đặc biệt là chưa huy động được nguồn lực tài chính từ phía xã hội để đẩy mạnh các hoạt động R&D.

Thứ ba, cần đẩy mạnh phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Khoa học và công nghệ là những sản phẩm khó xác định giá trị. Thị trường chính là một cơ chế định giá quan trọng cần phải được sử dụng. Chính vì thế, phát triển thị trường khoa học, công nghệ sẽ góp phần xác định chính xác hơn giá trị của khoa học, công nghệ, qua đó góp phần thúc đẩy khoa học, công nghệ phát triển.

Trong quá trình đổi mới, cùng với quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thị trường khoa học và công nghệ cũng cần thực sự hình thành và phát triển. Các sản phẩm khoa học và công nghệ tham gia giao dịch trên thị trường này càng nhiều hơn về số lượng, đa dạng hơn về chủng loại; các chủ thể giao dịch tham gia thị trường cũng ngày càng đông hơn; các yếu tố hỗ trợ thị trường cũng ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần bảo đảm cho giao dịch trên thị trường được diễn ra lành mạnh hơn. Tuy nhiên, ngoài những thành quả nêu trên, thị trường khoa học, công nghệ Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề: sản phẩm và dịch vụ nội địa giao dịch trên thị trường còn thưa thớt, chủ yếu là sản phẩm và dịch vụ của nước ngoài. Hơn nữa, chất lượng của sản phẩm và dịch vụ nước ngoài, nhất là về công nghệ còn thấp; năng lực của các chủ thể tham gia giao dịch trên thị trường còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thiếu am hiểu và tính chuyên nghiệp; các yếu tố hỗ trợ thị trường vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thị trường, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Để tiếp tục phát triển thị trường khoa học, công nghệ trong thời gian tới, cần chú ý một số giải pháp sau: 1) Hoàn thiện môi trường pháp lý để bảo đảm sự hoạt động lành mạnh của thị trường, trong đó đặc biệt quan trọng là hoàn thiện Luật Sở hữu tài sản trí tuệ; 2) Bảo đảm tính công khai, minh bạch, đầy đủ của thông tin thị trường; 3) Nâng cao dần chất lượng nguồn cung; 4) Xây dựng hệ thống thị trường vệ tinh hỗ trợ thị trường khoa học, công nghệ; 5) Từng bước nâng cao năng lực của các chủ thể Việt Nam khi tham gia thị trường.

Thứ tư, ngoài những giải pháp nhằm nâng cao trình độ công nghệ của Việt Nam như trên, còn cần phải quan tâm một cách sâu sắc hơn đến tính hợp lý của công nghệ. Công nghệ cũng chỉ là phương tiện để đạt mục đích của con người. Không thể phủ nhận rằng, sự phát triển của khoa học, công nghệ đã giúp giải quyết được khá nhiều vấn đề của con người. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề lớn của con người mà công nghệ đã không thể giải quyết, chẳng hạn như khoa học, công nghệ đã phát triển suốt mấy chục năm qua nhưng những vấn đề về ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên vẫn chưa được giải quyết, thậm chí còn trầm trọng hơn; nhiều căn bệnh/dịch bệnh mới xuất hiện và lan tràn khắp toàn cầu; khoảng cách giàu nghèo và sự bất bình đẳng không thể được giải quyết chỉ nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ; tình trạng thất nghiệp vẫn tồn tại dai dẳng nếu không muốn nói là đang gia tăng.

Đấy là chưa kể những vấn đề mà sự phát triển khoa học, công nghệ gây ra đối với con người, chẳng hạn như thay vì rút ngắn thời gian lao động, sự phát triển của công nghệ làm cho cuộc sống của con người trở nên bận rộn và gấp gáp hơn bao giờ hết; thay vì tạo ra sự hứng thú, kích thích sức sáng tạo của con người, sự phát triển của công nghệ chỉ dành điều đó cho một thiểu số nhỏ, còn lại là biến đa số người lao động thành những cỗ máy hoạt động theo đòi hỏi của quy trình công nghệ; thay vì làm cho con người có điều kiện gần gũi với giới tự nhiên, nó lại làm cho con người ngày càng xa cách tự nhiên hơn; thay vì giúp con người làm chủ bản thân tốt hơn, thì nó lại kích thích những ham muốn hưởng thụ của con người tiêu dùng trong một xã hội tiêu thụ; thay vì bổ sung thêm những công cụ lao động mới, nó lại tước đoạt và làm tha hóa những công cụ lao động cố hữu của con người đó là khối óc và đôi bàn tay... (7).

Xây dựng nền công nghệ nhân bản

Đã đến lúc “chúng ta phải đương đầu với vấn đề công nghệ: công nghệ đã làm gì và cần làm những gì? Liệu chúng ta có thể triển khai được một nền công nghệ mà nó thực sự giúp cho việc giải quyết những vấn đề của chúng ta, một nền công nghệ mang bộ mặt nhân bản được không”(8). “Nền công nghệ mang bộ mặt nhân bản” là một khái niệm có tính triết lý sâu sắc. Nó đòi hỏi đặt con người và những giá trị người vào vị trí trung tâm, vào mục đích của sự phát triển khoa học, công nghệ, đồng thời đặt khoa học, công nghệ trở về đúng vị trí phương tiện của nó. Quả thật, chúng ta cần phải suy tư một cách rất sâu sắc để tìm ra/lựa chọn/xây dựng một nền công nghệ phù hợp tính cách, tâm hồn và hệ thống giá trị của con người Việt Nam, một nền công nghệ không chỉ có khả năng tạo sinh của cải vật chất mà quan trọng hơn, còn phải giữ gìn, bồi đắp và tạo sinh những giá trị tinh thần.

Nghiên cứu, phát triển “công nghệ trung gian”, “công nghệ sạch”, “công nghệ thân thiện với môi trường”, “công nghệ mang bộ mặt nhân bản”,… - chúng ta có thể gọi loại công nghệ ấy bằng nhiều cái tên - có lẽ đó là con đường ra của chúng ta. Tháng 7-2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 49/2010/QĐ-TTg phê duyệt danh mục 46 công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và danh mục 76 sản phẩm công nghệ cao được ưu tiên đầu tư. Đây là một việc làm cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, chúng ta cần phải suy tư thấu đáo hơn ở tầm chiến lược về vấn đề lựa chọn loại hình công nghệ để tránh rơi vào con đường bế tắc mà nhiều nước phương Tây đang đi, đồng thời có thể thực hiện được mục tiêu chấn hưng đất nước. Nói cách khác, để thực hiện được các mục tiêu phát triển bền vững, không thể không xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam; muốn xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam, không thể không nâng cao trình độ công nghệ. Tuy nhiên, để sự phát triển công nghệ không quay trở hại hủy hoại các mục tiêu phát triển, cần phải nâng cao trình độ công nghệ một cách hợp lý. “Hợp lý” ở đây chính là phải phát triển một nền công nghệ sạch, công nghệ “mang bộ mặt nhân bản”.

Xây dựng môi trường thuận lợi là một giải pháp quan trọng để phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Môi trường thuận lợi cho việc phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam bao gồm việc lựa chọn và áp dụng mô hình tăng trưởng theo chiều sâu; xây dựng môi trường kích thích tính tích cực của người lao động trí tuệ, cụ thể là xây dựng đội ngũ lãnh đạo có đủ Nhân, Trí, Dũng, tạo điều kiện để người lao động có đầy đủ công cụ lao động, công việc và chế độ đánh giá và đãi ngộ xứng đáng,... Ngoài ra, môi trường thuận lợi cho phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam còn là một nền công nghệ phát triển hợp lý.

Để xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam nói chung, nâng cao trình độ công nghệ Việt Nam nói riêng, cần có sự tham gia của nhiều chủ thể, từ cấp vĩ mô là Đảng và Nhà nước, đến cấp vi mô là các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp,... và đến tận mỗi thành viên của xã hội. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước - lực lượng lãnh đạo và quản lý xã hội - là chủ yếu nhất./.

---------------------------------------------

Chú thích:

(1) http://www.tapchibcvt.gov.vn/News/PrintView.aspx?ID=17660

(2) http://www.vass.gov.vn/gioi_thieu/mlfolder.2007 - 11 - 28.0856406468/mlfolder.2007 - 11 - 28.2269069866/ mlfolder.2007 - 11 - 28.3869683342/mltextrule.2008 - 04 - 04.7404848967

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, H, 2011, tr. 218

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, H, 2011, tr. 218

(5) Xem: Hoàng Đình Phi: Học tập và sáng tạo công nghệ - Chìa khóa để xây dựng năng lực công nghệ và khả năng cạnh tranh bền vững cho doanh nghiệp Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2009

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, H, 2011, tr. 220

(7) Xem E.F. Schumacher: Nhỏ là đẹp, Nxb. Khoa học xã hội, H, 1995, tr. 212; Helga Nowotny, Peter Scott, Michael Gibbons: Tư duy lại khoa học; Edgar Morin: Trái đất Tổ quốc chung; Richard Bergeron: Phản phát triển - cái giá của chủ nghĩa tự do. Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995

(8) E.F. Schumacher: Nhỏ là đẹp, Nxb. Khoa học xã hội, H, 1995, tr. 212

PGS, TS. Lại Quốc Khánh  Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Nguồn: Tạp chí Cộng sản
http://tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2014/26685/Nang-cao-trinh-do-cong-nghe-phat-huy-nguon-luc-tri.aspx

Cập nhật ( 06/11/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com