Tuần -14 - Ngày 26/04/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Phát triển Khu công nghiệp
Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng XD và triển khai quy hoạch phát triển các KCN tại VN
11/01/2015


Trong những năm gần đây, hệ thống các KCN ngày càng phát huy được vai trò đầu tàu trong phát triển kinh tế, là động lực quan trọng đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện dại hóa của cả nước. Các KCN hiện đang là điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới trong những lĩnh vực khác nhau với nhiều sản phẩm được xuất khẩu sang các thị trường toàn cầu, góp phần nâng cao sức cạnh tranh, kim ngạch xuất khẩu, giá trị gia tăng của ngành sản xuất công nghiệp và dần khẳng định vị thế nước ta trong bản đồ địa kinh tế của khu vực và thế giới.


Ảnh minh hoạ

Công tác xây dựng quy hoạch phát triển KCN

Danh mục các KCN ưu tiên đầu tư, thành lập mới và mở rộng qua các thời kỳ đến năm 2000, 2010, 2015 và định hướng đến năm 2020 được phê duyệt tại các Quyết định số 519/TTg ngày 6/8/1996, số 713/TTg ngày 30/8/1997, số 194/1998/QĐ-TTg ngày 01/10/1998 và số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ với tổng số 171 KCN thành lập mới và 27 KCN mở rộng. Tính đến thời điểm hiện tại, trên phạm vi cả nước hiện có 461 KCN trong quy hoạch tổng thể phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 142,1 nghìn ha. Trong đó khoảng 82,8 nghìn ha của các KCN đã được thành lập/cấp Giấy chứng nhận đầu tư và 59,4 nghìn ha của các KCN chưa được thành lập.

Tính đến hết tháng 9/2014, cả nước hiện có 295 KCN được thành lập trên tổng số 461 KCN có trong quy hoạch với tổng diện tích đất tự nhiên 82,8 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 55,7 nghìn ha (chiếm khoảng 67% tổng diện tích đất tự nhiên). Các KCN được thành lập trên 60 tỉnh, thành phố, chủ yếu tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm nhằm phát huy lợi thế về vị trí địa lý và tiềm năng phát triển kinh tế của từng vùng. Ngoài ra, để tạo điều kiện phát triển công nghiệp địa phương một số KCN được thành lập tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn như khu vực trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên… Đông Nam Bộ là vùng có số lượng KCN được thành lập nhiều nhất với 100 KCN chiếm 33,9% số KCN của cả nước; tiếp đó là Đồng bằng sông Hồng với 76 KCN và Tây Nam Bộ với 51 KCN. Điển hình về xây dựng và phát triển các KCN là các tỉnh, thành phố Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An và Bắc Ninh (Biểu 1).

Biểu 1: Số lượng và diện tích KCN phân bố theo vùng (9/2014)

Vùng

Số lượng KCN

Tỷ lệ % so với cả nước

Diện tích (ha)

Tỷ lệ % so với cả nước

TDMN phía Bắc

24

8,1

      5.304

6,4

Đồng bằng sông Hồng

76

25,8

    17.824

21,5

Miền Trung

37

12,5

    10.277

12,4

Tây Nguyên

7

2,4

      1.073

1,3

Đông Nam Bộ

100

33,9

    35.582

43,0

Tây Nam Bộ

51

17,3

    12.780

15,4

Tổng số

295

100,0

   82.841

100,0










Nguồn: Vụ Quản lý các KKT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Tổng hợp kết quả rà soát các KCN có trong quy hoạch phát triển KCN đã được phê duyệt trên phạm vi cả nước đến năm 2020, cho thấy có 58 KCN có trong quy hoạch nhưng mới thành lập một phần diện tích; 9 KCN đã thu hồi GCNĐT để xem xét chuyển nhượng cho chủ đầu tư khác có năng lực hơn và 157 KCN có trong quy hoạch nhưng toàn bộ diện tích chưa thành lập, và sẽ tiếp tục được thành lập trong giai đoạn đến 2020 khi đáp ứng đủ điều kiện.

Vùng Đồng bằng sông Hồng có số KCN và diện tích còn lại chưa thành lập lớn nhất (chiếm 36,6% về số lượng và 36,1% về diện tích của cả nước), tiếp đến là vùng Đông Nam Bộ (chiếm 14,7% về số lượng và 20,5% về diện tích của cả nước) và vùng Tây Nam Bộ (chiếm 20,5% về số lượng và 18,6% về diện tích của cả nước) (Biểu 2).

Biểu 2KCN có trong quy hoạch đã thành lập một phần diện tích và KCN có trong quy hoạch toàn bộ diện tích chưa thành lập (*) (9/2014)

Vùng

Tổng DT đến năm 2020 (ha)

Số KCN đã thành lập một phần DT

Số KCN toàn bộ DT chưa thành lập

Diện tích đã thành lập (ha)

Diện tích còn lại chưa thành lập (ha)

Tỷ lệ % so với     cả nước

Về số lượng

Về DT

TDMN phía Bắc

6.447

8

15

1.502

4.946

10,3

8,3

Đồng bằng sông Hồng

26.507

22

60

5.109

21.398

36,6

36,1

Duyên hải miền Trung

11.133

10

24

2.321

8.812

15,2

14,8

Tây Nguyên

1.145

2

4

138

1.007

2,7

1,7

Đông Nam Bộ

13.526

9

24

1.366

12.160

14,7

20,5

Tây Nam Bộ

12.161

7

39

1.133

11.028

20,5

18,6

Tổng số

70.920

58

166

11.569

59.351

100

100

Nguồn: Vụ Quản lý các KKT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Ghi chú: (*) không tính các KCN có trong quy hoạch đã thành lập toàn bộ diện tích.

 

Hầu hết các KCN được thành lập và mở rộng là phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển các KCN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hệ thống các KCN đã được hình thành với tổng diện tích khoảng 82,8 nghìn ha, thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và sản xuất kinh doanh có hiệu quả góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, tăng thu ngân sách nhà nước và phát triển xuất khẩu…

Tình hình đầu tư xây dựng và phát triển KCN

Về đầu tư xây dựng hạ tầng

295 KCN thu hút được các nhà đầu tư tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng theo các hình thức đầu tư khác nhau, bao gồm: 41 KCN do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) làm chủ đầu tư; 212 KCN do các doanh nghiệp trong nước được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp làm chủ đầu tư và 42 KCN do công ty phát triển hạ tầng hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có thu (đơn vị sự nghiệp) làm chủ đầu tư. 

Tổng vốn đăng ký kết cấu hạ tầng của 295 KCN tương đương 12,8 tỷ USD, trong đó KCN do doanh nghiệp FDI làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,58 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 55,4% vốn đăng ký và các KCN do doanh nghiệp trong nước làm chủ đầu tư có vốn đầu tư đăng ký là 9,22 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 41,5% vốn đăng ký.

Về thu hút đầu tư

Trong 295 KCN đã được thành lập có 208 KCN đang hoạt động và 87 KCN đang đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng. Đến hết tháng 9/2014, các KCN đã thu hút được 5.325 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký 79,4 tỷ USD và 5.262 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 25,6 tỷ USD. Các dự án đầu tư trong KCN đã tạo việc làm cho trên 2,25 triệu lao động trực tiếp. Tỷ lệ lấp đầy các KCN đi vào hoạt động đạt 65%. Các tỉnh, thành phố có nhiều KCN đi vào hoạt động và đạt tỷ lệ lấp đầy cao như: Đồng Nai, Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh (Biểu 3).

Biểu 3: Tình hình thu hút đầu tư và lao động các KCN (9/2014)

Vùng

 

Đầu tư nước ngoài

(triệu USD)

Đầu tư trong nước

(tỷ đồng)

Lao động

(1.000 người)

Dự án

Đăng ký

Thực hiện

Dự án

Đăng ký

Thực hiện

TDMN phía Bắc

183

6.324

2.526

332

41.312

23.126

94,1

Đồng bằng Sông Hồng

1.337

20.642

11.967

1.101

113.484

65.429

578,9

Duyên hải miền Trung

204

3.890

1.345

986

63.200

25.454

170,4

Tây Nguyên

25

156

38

149

9.099

3.202

7,1

Đông Nam Bộ

3.173

44.371

26.518

1.726

190.583

112.587

1.164,0

Tây Nam Bộ

403

3.984

2.226

968

94.350

25.325

235,8

Tổng

5.325

79.365

44.620

5.262

512.028

255.124

2.250,3

 

Nguồn: Vụ Quản lý các KKT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Tỷ suất vốn đầu tư bình quân của các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài/ha đất công nghiệp đã cho thuê đạt 4,14 triệu USD/ha. Tổng số lao động bình quân/ha đất công nghiệp đã cho thuê đạt 89 người/ha.

Hàng năm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX chiếm từ 40-45% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tăng thêm của cả nước. Tính riêng trong ngành công nghiệp, các KCN, KCX thu hút khoảng 80% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Có thể khẳng định, các KCN là một công cụ hữu hiệu để thu hút các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án FDI, góp phần thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa trong phạm vi địa phương và trên cả nước. Nhiều dự án đầu tư có quy mô lớn, công nghệ tiên tiến, hiện đại như:  Samsung, Nokia, Canon,  Panasonic,... đã đầu tư trong KCN, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực điện tử, viễn thông.

Về xây dựng hệ thống xử lý nước thải

Tính đến hết tháng 9/2014, có165/295 KCN đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung hoàn chỉnh và đi vào vận hành, chiếm gần 56% tổng số KCN đã được thành lập và 80% tổng số KCN đang hoạt động. 85% doanh nghiệp thứ cấp đấu nối vào hệ thống xử lý nước thải chung của KCN. Tổng công suất xử lý nước thải của các  nhà máy hiện đang hoạt động đạt 595 ngàn m3/ngày đêm. Ngoài ra, hiện có 33 KCN đang xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung với tổng công suất thiết kế khoảng 98,4 ngàn m3/ngày đêm. Các nhà máy xử lý nước thải đã đi vào hoạt động tập trung phần lớn tại vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng, chiếm 67,3% tổng số KCN có nhà máy xử lý nước thải đi vào hoạt động và bằng 76,6% tổng công suất các nhà máy xử lý nước thải hiện có.

Nhà ở cho người lao động

Nghị định 164/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 sửa đổi Nghị định số 29/2008/NĐ-CP quy định về KCN, KCX, KKT đã bổ sung quy định mới dành một phần diện tích KCN đã giải phóng mặt bằng để xây dựng nhà ở cho người lao động. Đây thực sự là một điều kiện thuận lợi hơn để phát triển nhà ở cho người lao động trong KCN tại các địa phương, cũng là tạo điều kiện để giải quyết vấn đề quỹ đất và quy hoạch nhà ở gắn với quy hoạch KCN.

 

Kết quả đóng góp của các KCN vào phát triển kinh tế

Vai trò và đóng góp ngày càng tích cực của các doanh nghiệp KCN trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, thể hiện ở một số điểm sau:

Một là, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng liên tục từ mức khoảng 14% năm 2000 lên 28% năm 2005, 32% năm 2010 và 39% năm 2013.

Hai là, tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên đáng kể từ mức khoảng 15% năm 2000 lên khoảng 20% năm 2005, 25% năm 2010 và 34% năm 2013.

Ba là, các doanh nghiệp KCN bước đầu có đóng góp tích cực vào ngân sách nhà nước.Trong thời kỳ 2001-2005 các doanh nghiệp KCN nộp ngân sách đạt khoảng 2 tỷ USD, trong thời kỳ 2006-2010 là 5,9 tỷ USD và trong 03 năm 2011-2013 là 5,2 tỷ USD.

Bốn là, nếu tính bình quân 1 ha đất công nghiệp có thể cho thuê trong năm 2013, các KCN đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp 3,8 triệu USD/ha, giá trị xuất khẩu 2,12 triệu USD/ha, nộp ngân sách khoảng 1,5 tỷ đồng/ha. Trung bình 1 ha đất công nghiệp đã cho thuê đã tạo việc làm cho 86 lao động trực tiếp.

Như vậy, nếu so sánh các chỉ tiêu đầu tư, giá trị sản xuất, xuất khẩu, tạo việc làm trên 1 ha đất của các KCN so với 1 ha đất nông nghiệp thì có thể thấy rõ hiệu quả và đóng góp nổi bật của các KCN.

Năm là, việc phát triển các KCN đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động tích cực tới việc phát triển các vùng nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hóa, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất.

 

Một số hạn chế trong công tác quy hoạch

Công tác quy hoạch xây dựng KCN đã bộc lộc một số hạn chế: một số KCN được thành lập với diện tích thực tế của KCN sau khi đo đạc chênh lệch lớn hơn so với diện tích quy hoạch đã được phê duyệt; việc đề xuất bổ sung quy hoạch, thành lập KCN của một số địa phương chưa thực sự phù hợp với điều kiện, tiềm năng phát triển của địa phương; việc triển khai quy hoạch KCN đã được duyệt của một số địa phương còn hạn chế, chưa có kế hoạch thực hiện quy hoạch KCN với các mục tiêu và phân kỳ thành lập, mở rộng KCN cụ thể, hợp lý căn cứ trên khả năng thu hút đầu tư thực tế của địa phương.

Bên cạnh đó, các KCN được quy hoạch trong khu vực có diện tích đất trồng lúa nước với năng suất ổn định và quy mô diện tích lớn, khu vực đông dân cư nên gặp nhiều khó khăn trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định canh, định cư; thiếu lao động được đào tạo trong khi người dân bị thu hồi đất lại không có việc làm; thiếu nhà ở cho công nhân. Ngoài ra, một số KCN được quy hoạch trước đây nằm trong khu vực dự kiến mở rộng nội thành, nội thị của các thành phố, thị xã hoặc tại những vị trí không thuận lợi về điều kiện kết nối hạ tầng kỹ thuật.

 

Định hướng giải pháp thực hiện quy hoạch phát triển KCN

Để tiếp tục phát huy những thành quả đạt được, khắc phục những khó khăn vướng mắc, cản trở đối với sự phát triển của các KCN trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch KCN

Xây dựng, triển khai quy hoạch phát triển KCN gắn với thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, quy hoạch đô thị, quy hoạch khu dân cư, quy hoạch nhà ở và các quy hoạch ngành khác. Phát triển KCN với số lượng và quy mô phù hợp với điều kiện phát triển thực tế của địa phương, đảm bảo hiệu quả sử dụng đất KCN, không phát triển KCN trên đất lúa có năng suất ổn định. 

Thường xuyên rà soát, điều chỉnh quy hoạch KCN cho phù hợp với tình hình thực tế; đảm bảo diện tích KCN phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất từng thời kỳ; không bỏ trống đất đai, gây lãng phí; không phát triển KCN khi chưa đảm bảo tỷ lệ lấp đầy KCN theo quy định.

Hạn chế tối đa việc tăng diện tích, bổ sung mới quy hoạch KCN; tập trung phát triển các KCN đã thành lập, chỉ thành lập thêm KCN khi đáp ứng điều kiện theo quy định.

Theo định hướng nêu trên, vừa qua Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ rà soát điều chỉnh quy hoạch, trong đó, giảm diện tích hoặc đưa ra khỏi quy hoạch các KCN chậm triển khai, không hiệu quả…

Hai là, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng KCN và nâng cao chất lượng thu hút đầu tư vào KCN

Nâng cao chất lượng xây dựng kết cấu hạ tầng KCN theo hướng xây dựng một cách đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật với các tiện nghi, tiện ích công cộng phục vụ cho KCN; gắn kết cấu hạ tầng trong hàng rào với ngoài hàng rào KCN. Đa dạng các nguồn vốn để đầu tư xây dựng nhà ở và các công trình tiện nghi, tiện ích phục vụ đời sống người lao động KCN.

Tập trung ưu tiên thu hút các ngành nghề, lĩnh vực có hàm lượng công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường, các ngành nghề xác định là mũi nhọn phát triển và có lợi thế của Việt Nam và phù hợp với chương trình tái cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư của đất nước. Tăng cường tính liên kết ngành trong phát triển KCN; hình thành các KCN liên kết ngành nhằm tăng lợi thế cạnh tranh của KCN và nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN, dần hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương.

Xây dựng chiến lược, kế hoạch vận động xúc tiến đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; trong đó xác định cơ cấu đầu tư, dự án động lực phù hợp với tiềm năng, lợi thế của địa phương.

Ba là, kiểm soát chặt chẽ vấn đề môi trường

Phổ biến, tuyên truyền nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về môi trường trong các KCN gắn với việc thực hiện các chế tài xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường một cách cụ thể, kiên quyết và dứt điểm (kể cả việc xử phạt, chấn dứt hoạt động hay thu hồi GCNĐT của dự án đầu tư);

Nâng cao năng lực quản lý và kỹ thuật về môi trường cho các cơ quan liên quan đến KCN, KKT để tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý có đầy đủ nguồn lực thực hiện nhiệm vụ về bảo vệ môi trường KCN.

Bốn là, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động

Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm cải thiện điều kiện lao động, hỗ trợ đời sống vật chất, tinh thần của người lao động trong KCN phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước.

Chú trọng, đào tạo nghề cho thanh niên khu vực nông thôn, nhất là các vùng nông thôn bị thu hồi đất làm KCN; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho KCN; xây dựng đội ngũ lao động có tác phong công nghiệp, có trình độ, kỹ năng, kỷ luật lao động ngày càng được nâng cao. 

Xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa người lao động và người sử dụng lao động, tăng cường vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp phát triển kinh doanh gắn với nâng cao trách nhiệm đối với quyền lợi của người lao động và của cộng đồng.

Nghiên cứu, xây dựng chính sách mang tính khuyến khích cao để huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng nhà ở cho người lao động KCN thuê; chú trọng huy động nguồn lực sẵn có trong dân cư gắn với kiểm soát tiêu chuẩn xây dựng, kinh doanh nhà ở cho người lao động thuê.

Năm là, nghiên cứu, điều chỉnh mô hình phát triển KCN cho phù hợp

Thực tiễn hoạt động của các KCN trong thời gian qua đặt ra những vấn đề mới cần nghiên cứu, điều chỉnh mô hình KCN cho phù hợp thực tiễn phát triển của Việt Nam và xu hướng trên thế giới. Đó là vấn đề kết hợp giữa phát triển công nghiệp với phát triển nhà ở, đô thị, và các công trình tiện nghi, tiện ích công cộng phục vụ người lao động; phát triển các KCN có tính liên kết ngành cao, tính chuyên sâu cao; KCN hỗ trợ; KCN sinh thái; KCN công nghệ cao.

Sáu là, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển KCN

Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện cơ chế chính sách hiện hành liên quan tới KCN về ưu đãi thuế TNDN, ưu đãi thuế nhập khẩu hàng hóa để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư, tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng đầu tư, giảm chi phí tiếp cận đất đai, tăng cường phân cấp, giao nhiệm vụ trực tiếp từ Trung ương tới địa phương;

Nghiên cứu và xây dựng cơ chế, chính sách cho phù hợp với từng loại mô hình phát triển KCN mới;

Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước ở cấp Trung ương và địa phương đảm bảo đủ thẩm quyền và nguồn lực để quản lý các KCN theo hướng một cửa, một đầu mối và tương xứng với vai trò vị trí ngày càng quan trọng của các KCN trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

 

ThS. Vũ Quốc Huy – Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý các KKT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

(Nguồn: http://www.khucongnghiep.com.vn/tabid/65/articletype/ArticleView/articleId/1204/default.aspx)

Cập nhật ( 16/01/2015 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
“Chủ nghĩa xã hội là 'làm cho dân giàu nước mạnh' là 'mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do' ”.
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com