Việt Nam là nơi có điều kiện thuận lợi về tài nguyên văn hóa và đã dần hình thành môi trường thúc đẩy sáng tạo. Sản phẩm văn hóa bắt nguồn từ nơi đây chắc chắn sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn trong và ngoài nước, là cơ hội to lớn và hiện thực không thể bỏ lỡ cho mọi doanh nghiệp, cộng đồng xã hội tham gia khởi nghiệp. Khởi nghiệp thúc đẩy phát triển các ngành CNVH là xu thế tất yếu của thế kỷ 21, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập toàn cầu và tạo vị thế mới cho Việt Nam – Quốc gia văn hóa.
Khái niệm chung về Công nghiệp văn hóa
Hiện có nhiều khái niệm về Công nghiệp văn hóa (Culture industry).
Theo UNESCO, Công nghiệp văn hóa (CNVH) là ngành công nghiệp kết hợp sáng tạo, sản xuất, phân phối và dịch vụ tiêu dùng các sản phẩm có yếu tố văn hóa và được các quyền sở hữu trí tuệ bảo vệ.
CNVH là hoạt động sản xuất, dịch vụ gắn với sáng tạo (vì vậy còn được coi là ngành Công nghiệp sáng tạo - Creative Industries), nằm giữa kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa; giữa lĩnh vực kinh tế công nghiệp, kinh tế dịch vụ và kinh tế liên kết số; là điểm giao của nghệ thuật, kinh doanh và khoa học - công nghệ; giữa bản sắc văn hóa quốc gia và hội nhập quốc tế.
Cũng tương tự như trong các ngành công nghiệp khác trong nền kinh tế quốc dân, sản phẩm của ngành CNVH được tạo ra trong chuỗi sản xuất hàng hóa, từ việc sáng tạo hay tạo lập sản phẩm đến sản xuất, phân phối và dịch vụ tiêu dùng sản phẩm trên thị trường.
Sản phẩm của ngành CNVH có thị trường rộng lớn (phạm vi trong nước, xuất khẩu, quốc tế, đa quốc gia và toàn cầu) và thu hút nhiều doanh nghiệp, cộng đồng xã hội.
Sản phẩm của các ngành CNVH, không chỉ còn là thành quả mang tính cá nhân, mà được tạo ra theo quy trình công nghiệp với các đặc điểm:
i) Nguyên liệu đầu vào (hay tài nguyên cơ bản) cho tạo lập sản phẩm chủ yếu là ý tưởng sáng tạo, một loại tài nguyên mang tính toàn cầu, không giới hạn bởi các nguồn lực hạn chế như trong các ngành công nghiệp truyền thống;
ii) Sản phẩm tạo ra không cố định, luôn được điều chỉnh theo nhu cầu của thị trường tiêu thụ;
iii) Người lao động tạo lập sản phẩm tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành, hoàn thiện và định hình sản phẩm gắn với thị trường tiêu thụ;
iv) Có sự phối hợp giữa nhiều cá nhân, nhóm, tổ chức để tạo lập ra một sản phẩm có giá trị;
v) Sản phẩm được phân biệt bởi chất lượng và tính độc đáo; mỗi sản phẩm là một sự kết hợp khác nhau của vô số các yếu tố đầu vào dẫn đến kết quả sản phẩm là đa dạng, vô tận;
vi) Sự khác biệt về kỹ năng, sáng tạo dù nhỏ cũng có thể mang lại những thành công lớn về vị thế, tài chính mà không phụ thuộc vào mức độ đầu tư;
vii) Thời gian có vai trò quan trọng trong việc tạo lập và thị trường hóa sản phẩm;
viii) Sự phân chia nguồn lợi của các bên tham gia theo tiến trình tạo lập và dịch vụ tiêu dùng sản phẩm phải tính cả bản quyền tác giả của sản phẩm;
ix) Các ngành CNVH thường gắn với công nghệ kỹ thuật số, ví dụ như: Công nghệ thực tại ảo (Virtual Reality); Công nghệ tăng cường thực tế thật (Augement Reality); Quét và in 3D (3D Scanning and Printing); Công nghệ thông tin địa lý (Geographic Information System – GIS); Kỹ xảo điện ảnh (Visual Effect – VFX).., cùng với kết cấu hạ tầng và nguồn lực tương ứng, dần trở thành trung tâm của nền kinh tế tri thức;
x) Lợi thế cho phát triển các ngành CNVH và doanh nghiệp tạo lập sản phẩm văn hóa là tại các quốc gia có truyền thống văn hóa phong phú và các quốc gia có môi trường thúc đẩy năng lực sáng tạo.
Tại Việt Nam, CNVH gồm 12 nhóm ngành:
1) Quảng cáo; 2) Kiến trúc; 3) Phần mềm và trò chơi giải trí; 4) Thủ công mỹ nghệ; 5) Thiết kế; 6) Điện ảnh; 7) Xuất bản; 8) Thời trang; 9) Nghệ thuật biểu diễn; 10) Mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm; 11) Truyền hình và phát thanh; 12) Du lịch văn hóa.
(Một số quốc gia không xếp Du lịch Văn hóa vào ngành CNVH, mà vẫn thuộc ngành Công nghiệp Du lịch với tỷ trọng của Du lịch Văn hóa vào khoảng 37- 40%).
Các ngành CNVH có thể tồn tại độc lập, song thường phát triển mang tính liên ngành, tích hợp tạo thành nhóm ngành CNVH; có thể tập trung trong một khu vực, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp: Cụm CNVH, Công viên CNVH, Trung tâm CNVH.
Hình dung chung về vai trò của các ngành CNVH theo thống kê số lao động, doanh thu (thời điểm 2013) trên thế giới và tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (có bổ sung thêm ngành Du lịch văn hóa) theo bảng sau.
Bảng thống kế số lao động làm việc các ngành CNVH trên thế giới:
Bảng thống kế doanh thu trong các ngành CNVH trên thế giới:
Bảng thống kế số lao động làm việc các ngành CNVH tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương:
Bảng thống kế doanh thu trong các ngành CNVH tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương:
Bảng tổng hợp một số chỉ số về CNVH tại Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và thế giới (2013):
Loại
|
Đơn vị
|
Số lượng
|
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
|
|
|
Lao động
|
|
|
Số LĐ 11 ngành CNVH
|
13.352.000
|
người
|
Số LĐ của ngành Du lịch văn hóa (DLVH)
|
23.452.820
|
người
|
Tổng số LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH
|
36.804.820
|
người
|
Tổng số LĐ tại Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
|
1.811.000.000
|
người
|
Tỷ lệ LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH trên tổng số LĐ
|
2,03
|
%
|
Doanh thu
|
|
|
Doanh thu của 11 ngành CNVH
|
795.400
|
triệu USD
|
Doanh thu của ngành DLVH
|
242.017
|
triệu USD
|
Tổng doanh thu của 11 ngành CNVH và DLVH
|
1.037.417
|
triệu USD
|
Tổng doanh thu tại Khu vực Châu Á- TBD
|
20.876.000
|
triệu USD
|
Tỷ lệ đóng góp của 11 ngành CNVH và DLVH trên tổng doanh thu
|
4,97
|
%
|
Doanh thu/LĐ
|
|
|
Doanh thu/ LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH
|
28186,99
|
USD/người.năm
|
Doanh thu/ LĐ tại Khu vực Châu Á- TBD
|
11527,33
|
USD/người.năm
|
Thế giới
|
|
|
Lao động
|
|
|
Số LĐ 11 ngành CNVH
|
31.523.000
|
người
|
Số LĐ của ngành Du lịch văn hóa (DLVH)
|
37.330.780
|
người
|
Tổng số LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH
|
68.853.780
|
người
|
Tổng số LĐ thế giới
|
3.114.000.000
|
người
|
Tỷ lệ LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH trên tổng số LĐ
|
2,21
|
%
|
Doanh thu
|
|
|
Doanh thu của 11 ngành CNVH
|
2.286.000
|
triệu USD
|
Doanh thu của ngành Du lịch văn hóa
|
797.498
|
triệu USD
|
Tổng doanh thu của 11 ngành CNVH và DLVH
|
3.083.498
|
triệu USD
|
Tổng doanh thu toàn cầu
|
76.363.000
|
triệu USD
|
Tỷ lệ đóng góp của 11 ngành CNVH và DLVH trên tổng doanh thu
|
4,04
|
%
|
Doanh thu/ LĐ
|
|
|
Doanh thu/ LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH
|
44783,28
|
USD/người.năm
|
Doanh thu/ LĐ thế giới
|
24522,48
|
USD/người.năm
|
Nguồn:http://data.worldbank.org
Bảng trên cho thấy:
- Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: Số lao động của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa chiếm tỷ trọng 2,03% so với tổng số lao động tại khu vực; Tỷ lệ đóng góp doanh thu của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa đối với tổng doanh thu của khu vực vào khoảng 4,97%; Doanh thu/lao động của của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa gấp 2,44 lần so với tổng hợp chung của các ngành kinh tế khác.
- Trên thế giới: Số lao động của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa chiếm tỷ trọng 2,21% so với tổng số lao động trên thế giới; Tỷ lệ đóng góp doanh thu của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa đối với tổng doanh thu vào khoảng 4,04%; Doanh thu/lao động của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa gấp 1,83 lần so với tổng hợp chung của các ngành kinh tế khác.
Nhận thức vai trò của các ngành Công nghiệp văn hóa Việt Nam
Phát triển các ngành CNVH luôn dành được sự quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Ngày 08/9/2016, tại Quyết định số 1755/QĐ –TTg, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, phát triển các ngành CNVH là sự nghiệp của toàn dân, là một trong những ngành kinh tế sản xuất, dịch vụ quan trọng hàng đầu và có vai trò nổi bật:
- Góp phần giữ gìn tinh hoa văn hóa truyền thống; Quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; Thúc đẩy sự kết hợp giữa bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới trong quá trình giao lưu và hợp tác quốc tế; Khơi dậy sức sáng tạo văn hóa của mọi thành viên trong xã hội;
- Khai thác tiềm năng kinh tế của văn hóa như một hệ thống tài nguyên mới;
- Là công cụ hiệu quả để văn hóa trở thành động lực phát triển kinh tế, xã hội và tăng cường sức mạnh văn hóa – sức mạnh mềm của quốc gia trong thời đại hội nhập toàn cầu, kinh tế tri thức;
- Tác động lan tỏa, trước hết là đổi mới, sáng tạo, gắn kết cộng đồng; Tạo ra nhiều doanh nghiệp và việc làm; Mở ra thị trường trong và ngoài nước với các sản phẩm và dịch vụ văn hóa mới; Phục hồi, duy trì và phát triển các hoạt động văn hóa khác như y học cổ truyền, ẩm thực, lễ hội…; thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế khác có liên quan;
- Đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế; Là một trong những động lực cho chuyển dịch trọng tâm của nền kinh tế sang công nghiệp, dịch vụ và liên kết số; Góp phần tái cơ cấu mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu và phát triển bền vững (đối lập với mô hình theo chiều rộng dựa vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu thô, lao động giản đơn); Thay đổi bộ mặt của các địa phương;
- Đóng góp vào sự nghiệp phát triển văn hóa của Cộng đồng Xã hội – Văn hóa ASEAN, của thế giới và nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Lợi thế và các điều kiện ban đầu để phát triển CNVH Việt Nam
Việt Nam là quốc gia giàu truyền thống văn hóa: Việt Nam là nơi tập trung nhiều Di sản thế giới và là quốc gia có nhiều Di sản văn hóa.
- Di sản thế giới: Đến thời điểm 2016, Việt Nam là quốc gia có số lượng nhiều nhất Di sản thế giới trong các nước ASEAN. Việt Nam có 31 trong tổng số 111 Di sản, Công viên địa chất, Khu dự trữ sinh quyển thế giới tại ASEAN, gồm: 8 Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; 11 Di sản văn hóa phi vật thể; 2 Di sản tư liệu thế giới; 9 Khu dự trữ sinh quyển thế giới; 1 Công viên địa chất toàn cầu.
Thống kê Di sản thế giới và các Di sản UNESCO khác tại Việt Nam:
TT
|
Loại và tên Di sản
|
Năm công nhận
|
I
|
Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới
|
|
1
|
Quần thể di tích Cố đô Huế, Thừa Thiên Huế
|
1993
|
2
|
Phố cổ Hội An, Quảng Nam
|
1999
|
3
|
Thánh địa Mỹ Sơn, Quảng Nam
|
1999
|
4
|
Trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội
|
2010
|
5
|
Thành nhà Hồ, Thanh Hóa
|
2011
|
6
|
Quần thể danh thắng Tràng An, Ninh Bình
|
2014
|
7
|
Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh
|
1994; 2000
|
8
|
Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình
|
2003, 2015
|
II
|
Di sản văn hóa phi vật thể
|
|
9
|
Nhã nhạc, Nhạc cung đình Huế, Thừa Thiên Huế
|
2003, 2008
|
10
|
Không gian văn hóa cồng, chiêng Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng)
|
2005
|
11
|
Dân ca Quan họ Bắc Ninh (Bắc Ninh, Bắc Giang)
|
2009
|
12
|
Ca trù (Tại nhiều tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ)
|
2009
|
13
|
Hội Gióng tại đền Phù Đổng và đền Sóc, Hà Nội
|
2010
|
14
|
Hát xoan Phú Thọ
|
2011
|
15
|
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Phú Thọ
|
2012
|
16
|
Đờn ca tài tử Nam Bộ
|
2013
|
17
|
Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh
|
2014
|
18
|
Nghi lễ và trò chơi kéo co (trong cả nước)
|
2015
|
19
|
Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt (tiêu biểu tại Nam Định)
|
2016
|
III
|
Di sản tư liệu thế giới
|
|
20
|
Mộc bản triều Nguyễn
|
2009
|
21
|
Bia tiến sỹ của triều đại Lê và Mạc tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám, Hà Nội
|
2010
|
IV
|
Khu dự trữ sinh quyển thế giới
|
|
22
|
Rừng ngập mặn Cần Giờ, Thành phố HCM
|
2000
|
23
|
Vườn quốc gia Cát Tiên, Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước
|
2001
|
24
|
Đảo Cát Bà, Hải Phòng
|
2004
|
25
|
Khu dự trữ sinh quyền rừng ngập mặn Đồng bằng sông Hồng
|
2004
|
26
|
Khu Dự trữ sinh quyển Kiên Giang
|
2006
|
27
|
Khu Dự trữ sinh quyền Tây Nghệ An
|
2007
|
28
|
Khu Dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau
|
2009
|
29
|
Cù Lao Chàm – Hội An, Quảng Nam
|
2009
|
30
|
Khu Dự trữ sinh quyển Langbiang, Lâm Đồng
|
2015
|
V
|
Công viên địa chất toàn cầu
|
|
31
|
Công viên địa chất đá Đồng Văn, Hà Giang
|
2010
|
- Di sản văn hóa Việt Nam: Theo Luật Di sản văn hóa, Di sản văn hóa Việt Nam gồm: i) Di sản văn hóa vật thể (Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia); ii) Di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa Việt Nam được phân cấp thành: Di tích quốc gia đặc biệt; Di tích quốc gia; Di tích cấp tỉnh.
Hiện tại, Việt Nam đã thống kê được hơn 40.000 Di sản văn hóa, trong đó có hơn 3000 Di tích quốc gia đặc biệt, Di tích quốc gia và Di tích cấp tỉnh được xếp hạng. Các Di sản văn hóa này phân bố trong 11.162 đơn vị hành chính cấp xã (phường, thị trấn, xã), tương đương với gần 4 Di sản văn hóa trong mỗi đơn vị hành chính cấp xã (năm 2015).
Mặt mạnh của người Việt Nam: Yêu nước, chăm chỉ, khéo léo, ham học hỏi, thông minh và sáng tạo…
Một số hình ảnh của 8 Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới tại Việt Nam:
Ngọ Môn - Quần thể di tích Cố đô Huế, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; Di sản văn hóa thế giới (1993; hạng mục IV)
Chùa Cầu- Phố cổ Hội An, Quảng Nam; Di sản văn hóa thế giới (1999; hạng mục ii, v)
Di tích tháp cổ - Thánh địa Mỹ Sơn,huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; Di sản văn hóa thế giới (1999; hạng mục II, III)
Cột cờ Hà Nội - Trung tâm Hoàng thành Thăng, Hà Nội; Di sản văn hóa thế giới (2010; hạng mục ii, iii, iv)
Cổng Nam - Thành nhà Hồ, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa; Di sản văn hóa thế giới (2011; hạng mục ii, iv)
Cố đô Hoa Lư- Quần thể danh thắng Tràng An, tỉnh Ninh Bình; Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (2014; hạng mục v, vii, viii)
Vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Di sản thiên nhiên thế giới (năm 1994, lần 2 năm 2000; hạng mục vii, viii)
Hang Sơn Đòong - Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình; Di sản thiên nhiên thế giới (năm 2003, lần 2 năm 2015; hạng mục viii, ix, x)
Việt Nam đang nỗ lực kiến tạo môi trường phát triển các ngành CNVH
Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định:
- Mục tiêu chung: Phát triển các ngành CNVH trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ và tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam.
- Mục tiêu cụ thể: Phấn đấu doanh thu của các ngành CNVH đóng góp khoảng 3% GDP vào năm 2020; 7% vào năm 2030 và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội;
- Nhiệm vụ và nhóm giải pháp: i) Đẩy mạnh tuyên truyền và nâng cao nhận thức; ii) Hoàn thiện cơ chế chính sách; iii) Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực; iv) Tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ; v) Thu hút và hỗ trợ đầu tư; vi) Phát triển thị trường; vii) Mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế…
Việt Nam là quốc gia đi sau trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, điều đó cũng có nghĩa đi sau trong quá trình phát triển các ngành CNVH.
Từ bài học của các quốc gia phát triển, để CNVH Việt Nam trở thành động lực mới cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững; xác lập được vị thế của ngành trong nền kinh tế quốc gia, trong chuỗi giá trị kinh tế khu vực ASEAN và toàn cầu, phải sớm hình thành và thực hiện các kế hoạch, chương trình chủ yếu giai đoạn 2017- 2020, gồm:
- Tạo lập được môi trường thúc đẩy năng lực đổi mới sáng tạo, gắn với quyền sở hữu trí tuệ; Hình thành được thế hệ mới những người tổ chức, doanh nghiệp sản xuất, tiêu dùng và hội nhập văn hóa;
- Tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ cho ngành CNVH, cùng với việc tái cơ cấu thị trường các nhân tố sản xuất và dịch vụ quan trọng (thị trường các sản phẩm văn hóa, thị trường khoa học công nghệ gắn với nền kinh tế số, thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường quyền sử dụng đất có liên quan);
- Quảng bá thương hiệu quốc gia cho các ngành CNVH gắn với việc nâng cao nhận thức xã hội đối với các ngành CNVH;
- Xây dựng thành công Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về các ngành CNVH; đặc biệt là Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về Di sản thế giới, Di sản văn hóa cấp quốc gia và cấp tỉnh, là cơ sở cho việc bảo vệ, phát huy giá trị Di sản và là nguồn tài nguyên mở cho các ngành CNVH;
- Đào tạo nguồn nhân lực và thúc đẩy khởi nghiệp các doanh nghiệp CNVH, góp phần gia tăng số lượng doanh nghiệp và tỷ trọng lao động dịch vụ và liên kết số của quốc gia. Với dự báo đến năm 2020 Việt Nam có khoảng 1,2 – 1,5 triệu doanh nghiệp, các ngành CNVH phải có số lượng 30.000 – 40.000 doanh nghiệp.
- Hình thành Trung tâm CNVH cấp quốc tế và quốc gia tại TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, TP Đà Nẵng và tại 8 khu vực Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; là hình mẫu cho các Trung tâm CNVH cấp tỉnh, điểm khởi đầu cho việc hình thành đô thị và vùng công nghiệp sáng tạo.
- Thúc đẩy cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng xã hội Việt Nam gặp gỡ và trao đổi thường xuyên với các nhà đầu tư quốc tế để quảng bá tiềm năng và lợi thế; tìm kiếm, mở rộng thị trường nhằm gia tăng xuất khẩu sản phẩm văn hóa, du lịch văn hóa; thu hút đầu tư và công nghệ; củng cố niềm tin của các doanh nghiệp quốc tế đầu tư vào các ngành CNVH tại Việt Nam...
Phát triển Công nghiệp Văn hóa gắn với Di sản thế giới và Di sản văn hóa Việt Nam
Di sản thế giới tại Việt Nam và Di sản văn hóa Việt Nam là một hệ thống tài nguyên to lớn cho phát triển các ngành CNVH, trong đó hệ thống Di sản thế giới là tài nguyên cốt lõi hay tài nguyên chiến lược.
Các ngành CNVH Viêt Nam gắn với Di sản thế giới là các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng trong việc phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế.
Di sản thế giới tại Việt Nam và Di sản văn hóa Việt Nam là nguồn cảm hứng, là tư liệu, bối cảnh cho việc sáng tạo các ý tưởng tạo lập các sản phẩm văn hóa. Ngược lại các sản phẩm văn hóa góp phần truyền bá các giá trị của Di sản, kết nối giá trị của Di sản với các giá trị văn hóa chung của cộng đồng, khu vực, quốc gia và quốc tế.
Sớm hình thành các Tuyến đường Di sản, đặc biệt Tuyến đường Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, kết nối về văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN và các quốc gia khác theo các liên kết kinh tế mà Việt Nam tham gia; là cơ sở cho việc thiết lập hệ thống Tuyến đường Di sản văn hóa cấp quốc gia và cấp tỉnh khác. Từ đây hình thành được “Hành lang Công nghiệp Văn hóa”, nơi tập trung hệ thống kết cấu hạ tầng, các cơ sở tạo lập sản phẩm, sản xuất và tiêu dùng sản phẩm văn hóa tầm cỡ quốc gia và quốc tế.
Khởi nghiệp thúc đẩy phát triển các ngành Công nghiệp văn hóa.
Phát triển các ngành CNVH Việt Nam là sự nghiệp lâu dài; chỉ được dẫn dắt và thực hiện chủ động bởi chính người Việt Nam.
Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam trong giai đoạn 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Chính phủ khởi xướng, sẽ tiếp tục được hoàn thiện và định hình.
Việt Nam là nơi có điều kiện thuận lợi về tài nguyên văn hóa và đã dần hình thành môi trường thúc đẩy sáng tạo. Sản phẩm văn hóa bắt nguồn từ nơi đây chắc chắn sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn trong và ngoài nước, là cơ hội to lớn và hiện thực không thể bỏ lỡ cho mọi doanh nghiệp, cộng đồng xã hội tham gia khởi nghiệp.
Khởi nghiệp thúc đẩy phát triển các ngành CNVH là xu thế tất yếu của thế kỷ 21; phải hành động quyết liệt để sớm mang lại những thành tựu nhằm tạo ra những giá trị văn hóa mới, làm giàu thêm kho tàng Di sản văn hóa Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia trong Cộng đồng Xã hội – Văn hóa ASEAN và thế giới; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập toàn cầu và tạo vị thế mới cho Việt Nam – Quốc gia văn hóa.
TS. Phạm Đình Tuyển, Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, ĐHXD
(bài viết đã đăng trên Tạp chí Kiến truc Việt Nam, số 1/2017
|