Tuần -14 - Ngày 28/04/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Phát triển công nghiệp Việt Nam
Khởi nghiệp thúc đẩy phát triển Công nghiệp văn hóa Việt Nam
05/03/2017
 

Việt Nam là nơi có điều kiện thuận lợi về tài nguyên văn hóa và đã dần hình thành môi trường thúc đẩy sáng tạo. Sản phẩm văn hóa bắt nguồn từ nơi đây chắc chắn sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn trong và ngoài nước, là cơ hội to lớn và hiện thực không thể bỏ lỡ cho mọi doanh nghiệp, cộng đồng xã hội tham gia khởi nghiệp. Khởi nghiệp thúc đẩy phát triển các ngành CNVH là xu thế tất yếu của thế kỷ 21, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập toàn cầu và tạo vị thế mới cho Việt Nam – Quốc gia văn hóa. 
 
Khái niệm chung về Công nghiệp văn hóa 
Hiện có nhiều khái niệm về Công nghiệp văn hóa (Culture industry). 
Theo UNESCO, Công nghiệp văn hóa (CNVH) là ngành công nghiệp kết hợp sáng tạo, sản xuất, phân phối và dịch vụ tiêu dùng các sản phẩm có yếu tố văn hóa và được các quyền sở hữu trí tuệ bảo vệ. 
CNVH là hoạt động sản xuất, dịch vụ gắn với sáng tạo (vì vậy còn được coi là ngành Công nghiệp sáng tạo - Creative Industries), nằm giữa kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa; giữa lĩnh vực kinh tế công nghiệp, kinh tế dịch vụ và kinh tế liên kết số; là điểm giao của nghệ thuật, kinh doanh và khoa học - công nghệ; giữa bản sắc văn hóa quốc gia và hội nhập quốc tế. 
Cũng tương tự như trong các ngành công nghiệp khác trong nền kinh tế quốc dân, sản phẩm của ngành CNVH được tạo ra trong chuỗi sản xuất hàng hóa, từ việc sáng tạo hay tạo lập sản phẩm đến sản xuất, phân phối và dịch vụ tiêu dùng sản phẩm trên thị trường. 
Sản phẩm của ngành CNVH có thị trường rộng lớn (phạm vi trong nước, xuất khẩu, quốc tế, đa quốc gia và toàn cầu) và thu hút nhiều doanh nghiệp, cộng đồng xã hội. 
Sản phẩm của các ngành CNVH, không chỉ còn là thành quả mang tính cá nhân, mà được tạo ra theo quy trình công nghiệp với các đặc điểm: 
i) Nguyên liệu đầu vào (hay tài nguyên cơ bản) cho tạo lập sản phẩm chủ yếu là ý tưởng sáng tạo, một loại tài nguyên mang tính toàn cầu, không giới hạn bởi các nguồn lực hạn chế như trong các ngành công nghiệp truyền thống; 
ii) Sản phẩm tạo ra không cố định, luôn được điều chỉnh theo nhu cầu của thị trường tiêu thụ; 
iii) Người lao động tạo lập sản phẩm tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành, hoàn thiện và định hình sản phẩm gắn với thị trường tiêu thụ; 
iv) Có sự phối hợp giữa nhiều cá nhân, nhóm, tổ chức để tạo lập ra một sản phẩm có giá trị; 
v) Sản phẩm được phân biệt bởi chất lượng và tính độc đáo; mỗi sản phẩm là một sự kết hợp khác nhau của vô số các yếu tố đầu vào dẫn đến kết quả sản phẩm là đa dạng, vô tận;
vi) Sự khác biệt về kỹ năng, sáng tạo dù nhỏ cũng có thể mang lại những thành công lớn về vị thế, tài chính mà không phụ thuộc vào mức độ đầu tư;
vii) Thời gian có vai trò quan trọng trong việc tạo lập và thị trường hóa sản phẩm;
viii) Sự phân chia nguồn lợi của các bên tham gia theo tiến trình tạo lập và dịch vụ tiêu dùng sản phẩm phải tính cả bản quyền tác giả của sản phẩm; 
ix) Các ngành CNVH thường gắn với công nghệ kỹ thuật số, ví dụ như: Công nghệ thực tại ảo (Virtual Reality); Công nghệ tăng cường thực tế thật (Augement Reality); Quét và in 3D (3D Scanning and Printing); Công nghệ thông tin địa lý (Geographic Information System – GIS); Kỹ xảo điện ảnh (Visual Effect – VFX).., cùng với kết cấu hạ tầng và nguồn lực tương ứng, dần trở thành trung tâm của nền kinh tế tri thức;
x) Lợi thế cho phát triển các ngành CNVH và doanh nghiệp tạo lập sản phẩm văn hóa là tại các quốc gia có truyền thống văn hóa phong phú và các quốc gia có môi trường thúc đẩy năng lực sáng tạo. 
Tại Việt Nam, CNVH gồm 12 nhóm ngành: 
1) Quảng cáo; 2) Kiến trúc; 3) Phần mềm và trò chơi giải trí; 4) Thủ công mỹ nghệ; 5) Thiết kế; 6) Điện ảnh; 7) Xuất bản; 8) Thời trang; 9) Nghệ thuật biểu diễn; 10) Mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm; 11) Truyền hình và phát thanh; 12) Du lịch văn hóa. 
(Một số quốc gia không xếp Du lịch Văn hóa vào ngành CNVH, mà vẫn thuộc ngành Công nghiệp Du lịch với tỷ trọng của Du lịch Văn hóa vào khoảng 37- 40%). 
Các ngành CNVH có thể tồn tại độc lập, song thường phát triển mang tính liên ngành, tích hợp tạo thành nhóm ngành CNVH; có thể tập trung trong một khu vực, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp: Cụm CNVH, Công viên CNVH, Trung tâm CNVH.   
Hình dung chung về vai trò của các ngành CNVH theo thống kê số lao động, doanh thu (thời điểm 2013) trên thế giới và tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (có bổ sung thêm ngành Du lịch văn hóa) theo bảng sau. 
 
Bảng thống kế số lao động làm việc các ngành CNVH trên thế giới:

 
Bảng thống kế doanh thu trong các ngành CNVH trên thế giới:

Bảng thống kế số lao động làm việc các ngành CNVH tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương:

Bảng thống kế doanh thu trong các ngành CNVH tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương:
 
Bảng tổng hợp một số chỉ số về CNVH tại Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và thế giới (2013):  

Loại

Đơn vị

Số lượng

Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

 

 

Lao động

 

 

Số LĐ 11 ngành CNVH

13.352.000

người

Số LĐ của ngành Du lịch văn hóa (DLVH)

23.452.820

người

Tổng số LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH

36.804.820

người

Tổng số LĐ tại Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

1.811.000.000

người

Tỷ lệ LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH trên tổng số LĐ

2,03

%

Doanh thu

 

 

Doanh thu của 11 ngành CNVH

795.400

triệu USD

Doanh thu của ngành DLVH

242.017

triệu USD

Tổng doanh thu của 11 ngành CNVH và DLVH

1.037.417

triệu USD

Tổng doanh thu tại Khu vực Châu Á- TBD

20.876.000

triệu USD

Tỷ lệ đóng góp của 11 ngành CNVH và DLVH trên tổng doanh thu

4,97

%

Doanh thu/LĐ

 

 

Doanh thu/ LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH

28186,99

USD/người.năm

Doanh thu/ LĐ tại Khu vực Châu Á- TBD

11527,33

USD/người.năm

Thế giới

 

 

Lao động

 

 

Số LĐ 11 ngành CNVH

31.523.000

người

Số LĐ của ngành Du lịch văn hóa (DLVH)

37.330.780

người

Tổng số LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH

68.853.780

người

Tổng số LĐ thế giới

3.114.000.000

người

Tỷ lệ LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH trên tổng số LĐ

2,21

%

Doanh thu

 

 

Doanh thu của 11 ngành CNVH

2.286.000

triệu USD

Doanh thu của ngành Du lịch văn hóa

797.498

triệu USD

Tổng doanh thu của 11 ngành CNVH và DLVH

3.083.498

triệu USD

Tổng doanh thu toàn cầu

76.363.000

triệu USD

Tỷ lệ đóng góp của 11 ngành CNVH và DLVH trên tổng doanh thu

4,04

%

Doanh thu/ LĐ

 

 

Doanh thu/ LĐ của 11 ngành CNVH và DLVH

44783,28

USD/người.năm

Doanh thu/ LĐ thế giới

24522,48

USD/người.năm

Nguồn:http://data.worldbank.org  

Bảng trên cho thấy:  
- Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: Số lao động của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa chiếm tỷ trọng 2,03% so với tổng số lao động tại khu vực; Tỷ lệ đóng góp doanh thu của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa đối với tổng doanh thu của khu vực vào khoảng 4,97%; Doanh thu/lao động của của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa gấp 2,44 lần so với tổng hợp chung của các ngành kinh tế khác.  
- Trên thế giới: Số lao động của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa chiếm tỷ trọng 2,21% so với tổng số lao động trên thế giới; Tỷ lệ đóng góp doanh thu của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa đối với tổng doanh thu vào khoảng 4,04%; Doanh thu/lao động của 11 ngành CNVH và Du lịch văn hóa gấp 1,83 lần so với tổng hợp chung của các ngành kinh tế khác.   

Nhận thức vai trò của các ngành Công nghiệp văn hóa Việt Nam  

Phát triển các ngành CNVH luôn dành được sự quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. 
Ngày 08/9/2016, tại Quyết định số 1755/QĐ –TTg, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, phát triển các ngành CNVH là sự nghiệp của toàn dân, là một trong những ngành kinh tế sản xuất, dịch vụ quan trọng hàng đầu và có vai trò nổi bật: 
- Góp phần giữ gìn tinh hoa văn hóa truyền thống; Quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; Thúc đẩy sự kết hợp giữa bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới trong quá trình giao lưu và hợp tác quốc tế; Khơi dậy sức sáng tạo văn hóa của mọi thành viên trong xã hội; 
- Khai thác tiềm năng kinh tế của văn hóa như một hệ thống tài nguyên mới; 
- Là công cụ hiệu quả để văn hóa trở thành động lực phát triển kinh tế, xã hội và tăng cường sức mạnh văn hóa – sức mạnh mềm của quốc gia trong thời đại hội nhập toàn cầu, kinh tế tri thức;  
- Tác động lan tỏa, trước hết là đổi mới, sáng tạo, gắn kết cộng đồng; Tạo ra nhiều doanh nghiệp và việc làm; Mở ra thị trường trong và ngoài nước với các sản phẩm và dịch vụ văn hóa mới; Phục hồi, duy trì và phát triển các hoạt động văn hóa khác như y học cổ truyền, ẩm thực, lễ hội…; thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế khác có liên quan;   
- Đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế; Là một trong những động lực cho chuyển dịch trọng tâm của nền kinh tế sang công nghiệp, dịch vụ và liên kết số; Góp phần tái cơ cấu mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu và phát triển bền vững (đối lập với mô hình theo chiều rộng dựa vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu thô, lao động giản đơn); Thay đổi bộ mặt của các địa phương; 
- Đóng góp vào sự nghiệp phát triển văn hóa của Cộng đồng Xã hội – Văn hóa ASEAN, của thế giới và nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. 
 
Lợi thế và các điều kiện ban đầu để phát triển CNVH  Việt Nam

Việt Nam là quốc gia giàu truyền thống văn hóa: Việt Nam là nơi tập trung nhiều Di sản thế giới và là quốc gia có nhiều Di sản văn hóa. 
- Di sản thế giới: Đến thời điểm 2016, Việt Nam là quốc gia có số lượng nhiều nhất Di sản thế giới trong các nước ASEAN. Việt Nam có 31 trong tổng số 111 Di sản, Công viên địa chất, Khu dự trữ sinh quyển thế giới tại ASEAN, gồm: 8 Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; 11 Di sản văn hóa phi vật thể; 2 Di sản tư liệu thế giới; 9 Khu dự trữ sinh quyển thế giới; 1 Công viên địa chất toàn cầu. 
 
Thống kê Di sản thế giới và các Di sản UNESCO khác tại Việt Nam:

TT

Loại và tên Di sản

Năm công nhận

I

Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới

 

1

Quần thể di tích Cố đô Huế, Thừa Thiên Huế

1993

2

Phố cổ Hội An, Quảng Nam

1999

3

Thánh địa Mỹ Sơn, Quảng Nam

1999

4

Trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội

2010

5

Thành nhà Hồ, Thanh Hóa

2011

6

Quần thể danh thắng Tràng An, Ninh Bình

2014

7

Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh

1994; 2000

8

Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình

2003, 2015

II

Di sản văn hóa phi vật thể

 

9

Nhã nhạc, Nhạc cung đình Huế, Thừa Thiên Huế

2003, 2008

10

Không gian văn hóa cồng, chiêng Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng)

2005

11

Dân ca Quan họ Bắc Ninh (Bắc Ninh, Bắc Giang)

2009

12

Ca trù (Tại nhiều tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ)

2009

13

Hội Gióng tại đền Phù Đổng và đền Sóc, Hà Nội

2010

14

Hát xoan Phú Thọ

2011

15

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Phú Thọ

2012

16

Đờn ca tài tử Nam Bộ

2013

17

Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh

2014

18

Nghi lễ và trò chơi kéo co (trong cả nước)

2015

19

Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt (tiêu biểu tại Nam Định)

2016

III

Di sản tư liệu thế giới

 

20

Mộc bản triều Nguyễn

2009

21

Bia tiến sỹ của triều đại Lê và Mạc tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám, Hà Nội 

2010

IV

Khu dự trữ sinh quyển thế giới 

 

22

Rừng ngập mặn Cần Giờ, Thành phố HCM

2000

23

Vườn quốc gia Cát Tiên, Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước

2001

24

Đảo Cát Bà, Hải Phòng

2004

25

Khu dự trữ sinh quyền rừng ngập mặn Đồng bằng sông Hồng

2004

26

Khu Dự trữ sinh quyển Kiên Giang

2006

27

Khu Dự trữ sinh quyền Tây Nghệ An

2007

28

Khu Dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau

2009

29

Cù Lao Chàm – Hội An, Quảng Nam

2009

30

Khu Dự trữ sinh quyển Langbiang, Lâm Đồng

2015

V

Công viên địa chất toàn cầu

 

31

Công viên địa chất đá Đồng Văn, Hà Giang

2010

 


- Di sản văn hóa Việt Nam: Theo Luật Di sản văn hóa, Di sản văn hóa Việt Nam gồm: i) Di sản văn hóa vật thể (Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia); ii) Di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa Việt Nam được phân cấp thành: Di tích quốc gia đặc biệt; Di tích quốc gia; Di tích cấp tỉnh. 
Hiện tại, Việt Nam đã thống kê được hơn 40.000 Di sản văn hóa, trong đó có hơn 3000 Di tích quốc gia đặc biệt, Di tích quốc gia và Di tích cấp tỉnh được xếp hạng. Các Di sản văn hóa này phân bố trong 11.162 đơn vị hành chính cấp xã (phường, thị trấn, xã), tương đương với gần 4 Di sản văn hóa trong mỗi đơn vị hành chính cấp xã (năm 2015).
Mặt mạnh của người Việt Nam: Yêu nước, chăm chỉ, khéo léo, ham học hỏi, thông minh và sáng tạo…

Một số hình ảnh của 8 Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới tại Việt Nam:
 

Ngọ Môn - Quần thể di tích Cố đô Huế, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; Di sản văn hóa thế giới (1993; hạng mục IV)  

Chùa Cầu- Phố cổ Hội An, Quảng Nam; Di sản văn hóa thế giới (1999; hạng mục ii, v)

Di tích tháp cổ - Thánh địa Mỹ Sơn,huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; Di sản văn hóa thế giới (1999; hạng mục II, III)

Cột cờ Hà Nội - Trung tâm Hoàng thành Thăng, Hà Nội; Di sản văn hóa thế giới (2010; hạng mục ii, iii, iv)


Cổng Nam - Thành nhà Hồ, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa; Di sản văn hóa thế giới (2011; hạng mục ii, iv)


Cố đô Hoa Lư- Quần thể danh thắng Tràng An, tỉnh Ninh Bình; Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (2014; hạng mục v, vii, viii)

Vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Di sản thiên nhiên thế giới (năm 1994, lần 2 năm 2000; hạng mục vii, viii)


Hang Sơn Đòong - Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình; Di sản thiên nhiên thế giới (năm 2003, lần 2 năm 2015; hạng mục viii, ix, x)   
 
Việt Nam đang nỗ lực kiến tạo môi trường phát triển các ngành CNVH

Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định:
- Mục tiêu chung: Phát triển các ngành CNVH trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ và tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam. 
- Mục tiêu cụ thể: Phấn đấu doanh thu của các ngành CNVH đóng góp khoảng 3% GDP vào năm 2020; 7% vào năm 2030 và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội; 
- Nhiệm vụ và nhóm giải pháp: i) Đẩy mạnh tuyên truyền và nâng cao nhận thức; ii) Hoàn thiện cơ chế chính sách; iii) Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực; iv) Tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ; v) Thu hút và hỗ trợ đầu tư; vi) Phát triển thị trường; vii) Mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế…
Việt Nam là quốc gia đi sau trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, điều đó cũng có nghĩa đi sau trong quá trình phát triển các ngành CNVH. 
Từ bài học của các quốc gia phát triển, để CNVH Việt Nam trở thành động lực mới cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững; xác lập được vị thế của ngành trong nền kinh tế quốc gia, trong chuỗi giá trị kinh tế khu vực ASEAN và toàn cầu, phải sớm hình thành và thực hiện các kế hoạch, chương trình chủ yếu giai đoạn 2017- 2020, gồm: 
- Tạo lập được môi trường thúc đẩy năng lực đổi mới sáng tạo, gắn với quyền sở hữu trí tuệ; Hình thành được thế hệ mới  những người tổ chức, doanh nghiệp sản xuất, tiêu dùng và hội nhập văn hóa;
- Tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ cho ngành CNVH, cùng với việc tái cơ cấu thị trường các nhân tố sản xuất và dịch vụ quan trọng (thị trường các sản phẩm văn hóa, thị trường khoa học công nghệ gắn với nền kinh tế số, thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường quyền sử dụng đất có liên quan); 
- Quảng bá thương hiệu quốc gia cho các ngành CNVH gắn với việc nâng cao nhận thức xã hội đối với các ngành CNVH; 
- Xây dựng thành công Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về các ngành CNVH; đặc biệt là Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về Di sản thế giới, Di sản văn hóa cấp quốc gia và cấp tỉnh, là cơ sở cho việc bảo vệ, phát huy giá trị Di sản và là nguồn tài nguyên mở cho các ngành CNVH; 
- Đào tạo nguồn nhân lực và thúc đẩy khởi nghiệp các doanh nghiệp CNVH, góp phần gia tăng số lượng doanh nghiệp và tỷ trọng lao động dịch vụ và liên kết số của quốc gia. Với dự báo đến năm 2020 Việt Nam có khoảng 1,2 – 1,5 triệu doanh nghiệp, các ngành CNVH phải có số lượng 30.000 – 40.000 doanh nghiệp. 
- Hình thành Trung tâm CNVH cấp quốc tế và quốc gia tại TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, TP Đà Nẵng và tại 8 khu vực Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; là hình mẫu cho các Trung tâm CNVH cấp tỉnh, điểm khởi đầu cho việc hình thành đô thị và vùng công nghiệp sáng tạo.  
- Thúc đẩy cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng xã hội Việt Nam gặp gỡ và trao đổi thường xuyên với các nhà đầu tư quốc tế để quảng bá tiềm năng và lợi thế; tìm kiếm, mở rộng thị trường nhằm gia tăng xuất khẩu sản phẩm văn hóa, du lịch văn hóa; thu hút đầu tư và công nghệ; củng cố niềm tin của các doanh nghiệp quốc tế đầu tư vào các ngành CNVH tại Việt Nam...
 
Phát triển Công nghiệp Văn hóa gắn với Di sản thế giới và Di sản văn hóa Việt Nam

Di sản thế giới tại Việt Nam và Di sản văn hóa Việt Nam là một hệ thống tài nguyên to lớn cho phát triển các ngành CNVH, trong đó hệ thống Di sản thế giới là tài nguyên cốt lõi hay tài nguyên chiến lược. 
Các ngành CNVH Viêt Nam gắn với Di sản thế giới là các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng trong việc phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế. 
Di sản thế giới tại Việt Nam và Di sản văn hóa Việt Nam là nguồn cảm hứng, là tư liệu, bối cảnh cho việc sáng tạo các ý tưởng tạo lập các sản phẩm văn hóa. Ngược lại các sản phẩm văn hóa góp phần truyền bá các giá trị của Di sản, kết nối giá trị của Di sản với các giá trị văn hóa chung của cộng đồng, khu vực, quốc gia và quốc tế. 
Sớm hình thành các Tuyến đường Di sản, đặc biệt Tuyến đường Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, kết nối về văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN và các quốc gia khác theo các liên kết kinh tế mà Việt Nam tham gia; là cơ sở cho việc thiết lập hệ thống Tuyến đường Di sản văn hóa cấp quốc gia và cấp tỉnh khác. Từ đây hình thành được “Hành lang Công nghiệp Văn hóa”, nơi tập trung hệ thống kết cấu hạ tầng, các cơ sở tạo lập sản phẩm, sản xuất và tiêu dùng sản phẩm văn hóa tầm cỡ quốc gia và quốc tế. 
 
Khởi nghiệp thúc đẩy phát triển các ngành Công nghiệp văn hóa. 

Phát triển các ngành CNVH Việt Nam là sự nghiệp lâu dài; chỉ được dẫn dắt và thực hiện chủ động bởi chính người Việt Nam. 
Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam trong giai đoạn 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Chính phủ khởi xướng, sẽ tiếp tục được hoàn thiện và định hình.  
Việt Nam là nơi có điều kiện thuận lợi về tài nguyên văn hóa và đã dần hình thành môi trường thúc đẩy sáng tạo. Sản phẩm văn hóa bắt nguồn từ nơi đây chắc chắn sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn trong và ngoài nước, là cơ hội to lớn và hiện thực không thể bỏ lỡ cho mọi doanh nghiệp, cộng đồng xã hội tham gia khởi nghiệp.
Khởi nghiệp thúc đẩy phát triển các ngành CNVH là xu thế tất yếu của thế kỷ 21; phải hành động quyết liệt để sớm mang lại những thành tựu nhằm tạo ra những giá trị văn hóa mới, làm giàu thêm kho tàng Di sản văn hóa Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia trong Cộng đồng Xã hội – Văn hóa ASEAN và thế giới; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập toàn cầu và tạo vị thế mới cho Việt Nam – Quốc gia văn hóa. 
 
TS. Phạm Đình Tuyển, Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, ĐHXD
(bài viết đã đăng trên Tạp chí Kiến truc Việt Nam, số 1/2017
 
Cập nhật ( 05/03/2017 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
"Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa"
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com