Tuần -11 - Ngày 17/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
Tập đoàn kinh tế VN trước áp lực cạnh tranh của các tập đoàn xuyên quốc gia
27/06/2010

Trong “Thế giới phẳng” ngày nay, người ta vẫn băn khoăn về sự thao túng các chính phủ của các tập đoàn xuyên quốc gia và các thế lực tài phiệt quốc tế... Vậy, một bài toán lớn cần được đặt lên bàn nghị sự là, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các tập đoàn kinh tế Việt Nam nói riêng, phải triển khai chiến lược và chiến thuật cạnh tranh như thế nào? Bài toán đó khó có lời giải đúng nếu thiếu sự huy động sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc với nền kinh tế đa thành phần.

Tập đoàn kinh tế Việt Nam phải làm chủ sức mạnh tổng hợp trước áp lực cạnh tranh của các tập đoàn xuyên quốc gia

1 - Áp lực cạnh tranh trong toàn cầu hóa

Các chính phủ và liên minh khu vực, các tổ chức phát triển đa phương, tập đoàn xuyên quốc gia (Transnational Corporations - TNCs) đang được xem là những tác nhân có ảnh hưởng nhiều nhất tới sự vận hành của hệ thống kinh tế thế giới. Thế nhưng trong số đó, từ năm 1997, Báo cáo Đầu tư toàn cầu của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc đã xếp TNCs ở vị trí số một có ý nghĩa quyết định đến việc đầu tư, thương mại và phát triển kinh tế thế giới, rồi mới đến cấu trúc thị trường và chính sách cạnh tranh(1). Chính vì vai trò của TNCs trong mọi hoạt động kinh tế quốc tế ngày càng bành trướng nên khả năng thao túng và lũng đoạn kinh tế của chúng thậm chí được xem là nguyên nhân chính của khủng hoảng tài chính - tiền tệ toàn cầu năm 2007 - 2009. Nhiều nhà phân tích, nghiên cứu và ngay cả các nhà điều hành kinh tế đều thừa nhận uy quyền lấn át của những thế lực tài phiệt công nghiệp - ngân hàng quốc tế đối với các chính phủ.

Khi Việt Nam bắt đầu tham gia sân chơi WTO, cùng với sự hứng khởi trước bước tiến dài của đất nước trên hành trình hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế là những quan ngại về sức ép cạnh tranh tăng lên với sự hiện diện ngày một đông đảo hơn của TNCs trong nhiều lĩnh vực và hoạt động kinh tế. Các nhà kinh tế và giới truyền thông Việt Nam, trước tiên, đã đề cập tới nguy cơ các kênh phân phối nội địa - hệ thống huyết mạch của nền kinh tế quốc dân - rơi vào “vòng kiểm soát” của các tập đoàn ngoại quốc như Metro, Big C, Carrefour, hay Wal-Mart. Nguy cơ này đến nay vẫn chưa hề giảm. Tiếp sau đó, trong quãng thời gian “thăng hoa” của thị trường chứng khoán, bắt đầu từ nửa cuối năm 2006 đến hết năm 2007, Việt Nam chứng kiến sự hiện diện và hoạt động tích cực của những tập đoàn đầu tư danh tiếng nhất thế giới, như: Morgan Stanley, HSBC, Deutsche Bank, Texas Pacific Group, Daiwa, Nomura, Merrill Lynch... Từng động thái của những thế lực tài chính này đều tạo ra tác động rõ ràng tới xu thế tăng hay giảm của chỉ số chứng khoán Việt Nam. Thực ra, từ trước đó, nền kinh tế Việt Nam đã chứng kiến sự xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường trong nước của những tập đoàn đến từ châu Âu và Mỹ (Pepsi, Coca Cola, Nestle, hay Unilever) và từ cả các quốc gia láng giềng như Thái Lan (CP) hay In-đô-nê-xi-a (Japfa Comfeed).

Riêng lẻ trong từng ngành hàng, từng “cặp đấu tay đôi”, chúng ta có chiến thắng. Nhưng nhìn toàn cục, thì cần thẳng thắn thừa nhận rằng, vẫn còn rất thiếu những thương hiệu Việt Nam đủ tầm vóc sánh ngang “các cường quốc năm châu”. Nhìn vào ngành kinh doanh bất động sản hay ngân hàng, chứng khoán - những lĩnh vực phát triển “nóng” nhất hiện nay - Việt Nam đã có những thương hiệu và công ty lớn, tăng trưởng nhanh. Thế nhưng, tất cả vẫn còn đang loay hoay trong chính “sân nhà”. Cần một khối đoàn kết để tạo nên sức mạnh kinh doanh quốc gia, đây cũng là bài học từ kinh nghiệm tăng trưởng kinh tế Nhật Bản với động lực thúc đẩy là các keiretsu(3).

Rõ ràng, cuộc chiến cạnh tranh chiếm hữu nguồn lực và lợi nhuận đang diễn ra ngày càng khốc liệt. Một bên là các nền kinh tế đang phát triển, nguồn cung nguyên liệu thô cho thế giới và thị trường tiêu thụ dồi dào hàng hóa chế biến, công nghệ cao. Phía bên kia, có sức mạnh áp đảo, là khối gắn kết lợi ích của các tập đoàn đa quốc gia, tổ chức phi chính phủ, thể chế đa phương, hệ thống tình báo công nghiệp và cả các chính phủ quốc tế(2). Trong những “hiệp đấu” này, sức mạnh vật chất của vốn, nhân lực, trình độ công nghệ, kỹ nghệ quản trị nghiêng hẳn về thế giới phương Tây. Hơn thế nữa, những nguồn lực mềm của thông tin định hướng và yểm trợ chính sách có quyền năng rất lớn, góp phần quan trọng trong cắt giảm chi phí và thúc đẩy quá trình đầu tư, kinh doanh tiến hành nhanh chóng và thuận lợi. Phần sức mạnh vô hình và khó lường này đang trở nên thiết yếu trong nền kinh tế học thông tin toàn cầu hóa. Ở tình thế như vậy, cộng đồng kinh doanh bản địa dễ dàng bị đẩy vào “vòng luẩn quẩn” của công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, tích lũy ít ỏi và không thể bứt phá khỏi vị trí thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Vậy, nền kinh tế Việt Nam, với đại diện là cộng đồng doanh nghiệp nhiều thành phần sẽ đón tiếp các vị khách quốc tế này ra sao?

Nhiều câu trả lời có thể sẽ là hợp tác cùng có lợi! Đúng vậy, nhưng xây dựng quan hệ hợp tác với tâm thế nào? Lợi ích cùng cách thức chia sẻ ra sao thì công bằng? Doanh nghiệp Việt Nam hành xử như một vị chủ nhà hiếu khách và cần được tôn trọng. Triết lý phương Đông có câu, “khách mạnh không được lấn chủ.” Trong quan hệ đối tác bình đẳng, trước tiên và trên hết, là lợi ích của đất nước và dân tộc. Còn cần nhìn xa hơn thế. Xây dựng thị trường nội địa vững chắc cũng là để tiến ra biển lớn kinh tế thế giới. Những cuộc quyết đấu trên thị trường là không thể tránh khỏi. Thương trường là chiến trường với nhiều mặt trận, chiến dịch mà các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có cách đứng lên và đối diện với thực tế khắc nghiệt. “Chiến thắng là phần thưởng cho các chiến binh quả cảm”.

Áp lực cạnh tranh toàn cầu hóa thự sự vô cùng khắc nghiệt. “Sân chơi” toàn cầu có những luật lệ mới đòi hỏi tư duy tiếp cận mới, có tính đến sự vận động của địa - kinh tế toàn cầu(4). Trước đây và hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam, cho dù mức độ tiếp cận và khai thác có độ khó khăn khác nhau, thì nhìn chung vẫn dễ dàng huy động và sử dụng các nguồn lực nội địa sắn có. Với sức ép cạnh tranh từ bên ngoài không ngừng tăng lên, nếu không có phương pháp nắm giữ và sử dụng hợp lý thì những nguồn lực này sẽ nhanh chóng rơi vào tay các thế lực đa quốc gia.

Rất khó để các doanh nghiệp Việt Nam, có bề dày kinh nghiệm trong kinh tế thị trường chỉ một vài thập niên, trong một nền kinh tế còn đang chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung sang kinh tế thị trường, xác lập được quan hệ kinh doanh bình đẳng với các TNC đã phát triển cả trăm năm.

Dù có tên gọi là tổng công ty, tập đoàn kinh tế (TĐKT), doanh nghiệp trọng điểm... thì trong cả khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân, hệ thống kinh tế Việt Nam vẫn cần sự hiện diện, và ngày một nhiều hơn, những cỗ máy kinh doanh được thiết kế cho hành trình dài, tầm nhìn vượt giới hạn không gian - thời gian, chứa đựng khát vọng xây dựng hình ảnh và tích tụ sức mạnh quốc gia. Một “cơ thể” muốn cường tráng cần nhiều dinh dưỡng. Các thể chế kinh doanh này, như chúng ta vẫn gọi là TĐKT, cần được nền kinh tế trao nguồn lực, được thị trường và cộng đồng ủng hộ, và được Chính phủ ủy thác sứ mệnh phát triển sức mạnh kinh tế quốc gia. TĐKT không chỉ là một danh hiệu, mà phải được xác định bằng khả năng tiếp nhận, quản trị và triển khai hiệu quả nguồn lực lớn lao được tập trung cho số ít các đại diện tiêu biểu của nền kinh tế. Không phân biệt sở hữu tư nhân hay sở hữu nhà nước(5), TĐKT Việt Nam cần có cốt lõi năng lực tiếp cận và sử dụng nguồn lực quy mô lớn, thực thi các sứ mệnh lớn, tạo kết nối bền chắc giữa sản xuất - thương mại - phân phối - tài chính - Nghiên cứu và phát triển (R&D) để trở thành các “chiến binh quốc tế”, không ngừng vươn tới các vị thế cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.

2 - Một số điểm chú ý về mô hình TĐKT ở Việt Nam

Thứ nhất, về địa vị pháp lý: Nghị định số 101/2009/NĐ-CP của Chính phủ, ban hành ngày 5-11-2009, quy định TĐKT có tư cách pháp nhân và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con. Theo Nghị định này, TĐKT có thể thành lập theo hai cách. Cách thứ nhất, lập ra một doanh nghiệp mới, gọi là công ty mẹ hay Holdings Company, sẽ tiếp nhận phần sở hữu tại các doanh nghiệp thành viên để hình thành TĐKT. Cách thứ hai, một doanh nghiệp đang hoạt động được lựa chọn làm công ty mẹ. Doanh nghiệp này sẽ tiếp nhận phần sở hữu toàn bộ hay chi phối, tại các doanh nghiệp thành viên để hình thành TĐKT.

Nghị định số 101 tạo nền tảng pháp lý cho hoạt động của TĐKT ở Việt Nam. Tuy vậy, đối tượng điều chỉnh của Nghị định mới chỉ giới hạn trong phạm vi các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tức là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ quyền chi phối. Đây là điểm hạn chế. Thậm chí, khi VCCI và Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức lấy ý kiến các luật sư, chuyên gia kinh tế, đại diện TĐKT và doanh nghiệp, đa số đại biểu còn có ý kiến không nên ban hành một nghị định dành riêng cho TĐKT nhà nước(6).

Với mục tiêu một hệ thống kinh tế quốc gia vững mạnh, khu vực kinh tế tư nhân đang lớn mạnh và có đóng góp ngày một quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xứng đáng có những đại diện trong lực lượng kinh tế chủ đạo.

Thứ hai, về động lực phát triển kinh tế quốc gia: Trong cuộc làm việc sáng ngày 10-3-2010 giữa Thường trực Chính phủ với lãnh đạo, đại diện của hơn 100 tập đoàn, Tổng công ty (TCT) 91 và 90 về nhiệm vụ, giải pháp thực hiện kế hoạch năm 2010, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ghi nhận những đóng góp của các TĐKT và TCT trong bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, điều tiết phát triển kinh tế - xã hội theo đúng mục tiêu đề ra, trong bối cảnh kinh tế thế giới khủng hoảng và suy thoái có nhiều tác động tích cực đến Việt Nam.

Đồng thời, Thủ tướng cũng giao nhiệm vụ làm “đầu tàu” tăng trưởng cho các TĐKT, TCT. Năm 2010, các TĐKT, TCT và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải phấn đấu đạt mức tăng trưởng từ 10% trở lên. Đây là cơ sở để hoàn thành các chỉ tiêu Quốc hội đã thông qua là tăng trưởng GDP khoảng 6,5%, giữ lạm phát ở mức khoảng 7% trong năm 2010, và hoàn thành kế hoạch 5 năm 2011 - 2015. Trọng trách này, người đứng đầu Chính phủ giao cho các doanh nghiệp hàng đầu, không phân biệt nhà nước hay tư nhân.

Thứ ba, về tập trung nguồn lực lớn của quốc gia cho các các mục tiêu phát triển: Thống kê vào tháng 10-2008 của Bộ Tài chính cho biết, TĐKT và TCT sở hữu gần 400.000 tỉ đồng, chiếm hầu hết vốn của Nhà nước tại các DNNN, nắm giữ 75% tài sản cố định quốc gia, khoảng 60% tổng tín dụng ngân hàng trong nước và tổng vốn vay nước ngoài.

Đầu tư dàn trải, sử dụng thiếu hiệu quả nguồn vốn và tài nguyên vẫn đang là vấn đề công luận bức xúc, nhắc tới nhiều. Nếu không sớm giải quyết tốt, sẽ tiếp tục lãng phí nguồn lực quốc gia và trở thành mối nguy với doanh nghiệp và cả hệ thống kinh tế.

Khi được công nhận chính thức vai trò TĐKT, khu vực kinh tế tư nhân sẽ có thêm điều kiện tiếp cận và sử dụng nhiều nguồn lực hơn nữa. Trong kỳ họp đầu tháng 2-2010, Ban Bí thư đã ra Kết luận về tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, theo đó, sẽ có cơ chế để doanh nghiệp tư nhân được vay vốn ODA như DNNN. Theo cơ chế này, nhiều khả năng sẽ triển khai quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân (PPP), được kỳ vọng tạo cú hích cho các TĐKT tư nhân, tập trung các điều kiện hỗ trợ vượt trội về tiếp cận thông tin, ứng dụng khoa học - công nghệ, kỹ nghệ quản trị...

Thứ tư, về trách nhiệm xã hội, trách nhiệm quốc gia: Có nguồn lực tốt hơn, dồi dào hơn thực sự là lực đẩy quan trọng để các doanh nghiệp tư nhân hàng đầu Việt Nam tăng cường năng lực cạnh tranh, chuyển dịch lên vị thế cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, từ đó, có đóng góp lớn hơn vào thành tựu kinh tế của đất nước. Nhưng quyền lợi phải gắn liền với trách nhiệm. Nguồn lực được giao phải được sử dụng hiệu quả, trước tiên và trên hết, vì lợi ích của quốc gia, phục vụ cho nhân dân. Những người chủ doanh nghiệp tư nhân, trong quá trình phấn đấu mở rộng và tăng trưởng trở thành TĐKT, phải nhận thức ngày một đầy đủ hơn, thể hiện bằng hành động cụ thể ngày một nhiều hơn trách nhiệm với xã hội và cộng đồng.

Mức độ hoàn thành trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội, cộng đồng và đất nước cần thiết là một tiêu chuẩn đánh giá khả năng trở thành TĐKT. Hiện đây còn là vấn đề đang bỏ ngỏ.

Đầu tư dàn trải, sử dụng thiếu hiệu quả nguồn vốn và tài nguyên vẫn đang là vấn đề công luận bức xúc, nhắc tới nhiều. Nếu không sớm giải quyết tốt, sẽ tiếp tục lãng phí nguồn lực quốc gia và trở thành mối nguy với doanh nghiệp và cả hệ thống kinh tế.

Nếu trước đây, nguồn lực đất nước còn có sự phân tán vào các khu vực và lực lượng kinh tế, thì với sự hiện diện chính thức của TĐKT tư nhân, nguồn lực càng được tập trung cao hơn vào một số ít các “đầu tàu” kinh tế. Đổ vỡ của TĐKT, khi này, có thể tạo thành hiệu ứng dây chuyền, tác hại cho toàn bộ nền sản xuất - kinh doanh của quốc gia. Vai trò và vị thế mới của TĐKT trong toàn cầu hóa đặt ra các yêu cầu đổi mới trong quản trị doanh nghiệp.

Thứ năm, về phương thức quản trị theo công ty đại chúng: Giống như hầu hết các doanh nghiệp tư nhân Đông Á và cũng là vấn đề đặt ra với các cheabol và keiretsu, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam còn phổ biến quản trị theo phương thức gia đình. Hoạt động theo tư cách TĐKT đòi hỏi phải có những chuyển đổi về nhận thức và phương thức quản trị bắt đầu từ người chủ sở hữu, cũng thường là cấp quản trị cao nhất trong tập đoàn tư nhân.

Một TĐKT có điều kiện sử dụng và khai thác nguồn lực lớn của xã hội, tiếp nhận từ Chính phủ, từ cộng đồng bắt buộc phải được quản trị theo phương thức công ty đại chúng. Điều này không có nghĩa TĐKT phải là công ty cổ phần hay phải có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán. Tính đại chúng thể hiện trong bản chất điều hành doanh nghiệp. Đó là công khai, minh bạch thông tin, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm với nhà nước và công chúng - những người sở hữu một phần, dù nhỏ hay lớn, dù trực tiếp hay gián tiếp - TĐKT tư nhân.

Thứ sáu, về quản trị rủi ro: TĐKT hoạt động đa ngành tạo điều kiện để phân tán rủi ro sản xuất kinh doanh. Điều này cũng đồng nghĩa với việc mức độ phức tạp trong quản trị rủi ro của TĐKT tăng lên nhiều lần. Quy mô hoạt động của doanh nghiệp, xét trên nhiều yếu tố (độ bao phủ địa lý, lĩnh vực kinh doanh, số lượng nhân công, số lượng sản phẩm dịch vụ...), có sự tăng trưởng nhảy vọt có thể trở thành rủi ro lớn cho doanh nghiệp khi năng lực quản trị của đội ngũ điều hành không kịp phát triển tương ứng.

Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy, liên kết sở hữu chéo, nhằng nhịt giữa các thành viên tập đoàn, đặc biệt là quan hệ các ngân hàng và tổ chức tài chính - tín dụng tiềm tàng rủi ro lớn cho các TĐKT và hệ thống kinh tế quốc gia. Hiện tượng các TĐKT nhà nước đều có chiến lược tương tự nhau trong phát triển hoạt động ngân hàng, chứng khoán, quỹ đầu tư thời gian qua thực sự tạo lo ngại cho giới phân tích, nghiên cứu và cả những nhà hoạch định chính sách, điều hành kinh tế vĩ mô. Các doanh nghiệp tư nhân hàng đầu cũng chịu sức ép triển khai chiến lược tương tự. Rủi ro này cần được phòng ngừa từ xa và bằng cả hành lang pháp lý.

TĐKT nhận được nhiều hỗ trợ từ Chính phủ (cơ chế quản lý đặc thù riêng, được giao sứ mệnh trọng trách...) và tiếp nối là từ toàn xã hội (ủng hộ tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ ở thị trường nội địa, tập hợp nguồn vốn nhỏ lẻ trong cộng đồng...). Đồng thời, công chúng đông đảo sẽ là lực lượng giám sát khắt khe và thường trực với từng hoạt động của TĐKT, nhất là các TĐKT tư nhân. Sức ép lớn này là cần thiết và phải vượt qua được để Việt Nam thực sự phát triển một lực lượng kinh tế lớn mạnh, đủ sức cạnh tranh trên “sân chơi” toàn cầu.

3 - TĐKT - “Chiến binh Việt Nam” trên thị trường toàn cầu

Tăng trưởng kinh tế nhanh, liên tục trong cả thập niên qua của Việt Nam chững lại do tác động của khủng hoảng 2007 - 2009 nhưng đang dần phục hồi tích cực. Với tốc độ tích lũy ngày càng cao hơn của nền kinh tế, hình thành và phát triển tự nhiên của các TĐKT là phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình chuyển đổi. Trong tiến trình này, câu hỏi “Các TĐKT đã thực hiện đúng sứ mạng được giao?” và “TĐKT cần làm gì để hoạt động tốt hơn nữa, thành công hơn nữa?” còn tiếp tục được đặt ra, được trả lời và lại đặt ra. Nếu đây là đội quân chủ lực của hệ thống kinh tế quốc dân thì kinh tế phải được đặt vào vị trí trung tâm của các trung tâm, nguồn lực - cả hữu hình và vô hình - cùng tâm sức của các nhà lãnh đạo đất nước, giới tinh hoa tri thức và kinh doanh cùng phải dồn cho TĐKT.

Việt Nam đã chính thức bước vào “sân chơi” WTO, tuân thủ các quy tắc kinh tế thị trường của thế giới. Hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi ích và đóng góp của TĐKT với quốc gia và dân tộc cần bỏ qua ranh giới phân biệt dân doanh và quốc doanh, cả về mặt hành chính và tư duy quan niệm. Chừng nào vẫn còn cách phân loại này, sẽ vẫn còn đối xử khác biệt. Trong khi đó, vai trò và đóng góp ngày một lớn hơn của lực lượng kinh tế tư nhân đang được cả Chính phủ và cộng đồng ghi nhận. Như vậy, nền tảng của TĐKT quyết định ở bản chất công nghệ kinh doanh, sức mạnh cạnh tranh, và phương pháp sáng tạo giá trị mới ở chính từng công ty/nhóm công ty.

Năng lực cốt lõi này thể hiện qua triết lý kinh doanh, tầm nhìn chiến lược về vị thế doanh nghiệp trong chuỗi giá trị toàn cầu và đặt đúng mục tiêu. Mỗi TĐKT cần tìm cho mình một hướng đi riêng để phát huy ưu thế cạnh tranh tương đối của Việt Nam với phần còn lại của thế giới và có nhiệm vụ trình bày nổi bật nhất các thế mạnh của mình để được cả Chính phủ và thị trường lựa chọn. Khi được công nhận là TĐKT, công ty cần xây dựng hệ thống tư tưởng và triết lý kinh doanh cho dài hạn, hiểu thấu khái niệm tầm nhìn xa và quyền lực của hệ thống doanh nghiệp, nắm bắt kỳ vọng của xã hội với TĐKT và trung thực nhìn nhận những gì đã làm được cho đất nước.

Mức độ hoàn thành trách nhiệm xã hội trở thành thước đo văn hóa cốt lõi của doanh nghiệp, “sức mạnh mềm” của sách lược “chiến tranh nhân dân” huy động sức mạnh tổng lực quốc gia trong phát triển kinh tế. Khi Chính phủ, thị trường và cộng đồng cùng sử dụng tiêu chuẩn này, vách ngăn giữa tư nhân và Nhà nước thực sự bị xóa bỏ. Chỉ còn lại một tiêu chí duy nhất được thừa nhận rộng rãi: đóng góp của tập đoàn vào sức mạnh kinh tế quốc dân và phúc lợi của nhân dân. Vai trò của đội quân chủ lực, lẽ tự nhiên, được làm rõ và công nhận.

Khi đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, TĐKT không đơn thuần là một thể chế kinh doanh hướng tới mục tiêu lợi nhuận, mà còn thể hiện hình ảnh, tầm vóc, các giá trị văn hóa truyền thống của quốc gia và dân tộc. Một đất nước dù nhỏ bé về địa lý vẫn có thể sản sinh những tập đoàn toàn cầu hùng mạnh. Đó là một hiện thực, ngày nay thế giới đã biết đến một Nokia của Phần Lan hay Nestle của Thụy Sĩ.

Đó cũng chính là bài học từ các chaebol của Hàn Quốc, tuy có đi sau Nhật Bản, chấp nhận đứng thấp hơn về chất lượng nhưng đã tìm được cách riêng để tạo lập vị thế của mình. Thành công của Hàn Quốc là khả năng ra “cú đấm tổng lực”, tập trung sức mạnh chính trị, ngoại giao, văn hóa, phim ảnh... Quyền lực mềm của các tập đoàn Hàn Quốc đã gia tăng đáng kể. Hàn Quốc thực thi một chiến lược quốc gia với những điểm nhấn cụ thể, khai thác yếu tố văn hóa và đặc trưng xã hội Á Đông. Đó là công nghệ thiết kế kiểu dáng, ứng dụng cho nhiều loại sản phẩm từ ô-tô, tới hàng tiêu dùng, thời trang, và mỹ phẩm.

Cạnh tranh là không thể né tránh trong toàn cầu hóa. Cách tốt nhất cho các doanh nghiệp Việt Nam là quyết liệt khai thác lợi ích từ cạnh tranh. TĐKT hùng mạnh cần xây dựng và khai thác hiệu quả cùng lúc cả “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”. “Sức mạnh cứng” gồm tài nguyên, nguồn vốn, con người, công nghệ... là có giới hạn. “Sức mạnh mềm” từ vốn tri thức, hoạt động truyền thông tốt để xây dựng lòng tin và sự tin tưởng, hình thành sức thuyết phục và hấp dẫn thì không có giới hạn. “Quyền lực mềm” này đạt được khi TĐKT hội tụ đủ các yếu tố khát vọng, sáng tạo, đam mê, và sự kiên trì./.

Đặng Lê Nguyên Vũ (theo tapchicongsan.org.vn)

_____________________________________________

(1) UN Conference on Trade and Development: World Investment Report 1997: Transnational Corporations, Market Structure, and Competition Policy, New York and Geneva, 1997

(2) John Perkin: Lời thú tội của một sát thủ kinh tế, Nxb Penguin, New York, 2007

(3) Keiretsu là một phương thức hợp tác kinh doanh mang đậm nét đặc trưng kiểu Nhật. Nội dung quan trọng nhất của Keiretsu là tạo ra mối liên kết hàng ngang giữa các công ty làm ăn với nhau bằng phương thức xâm nhập sâu vào nhau qua mua cổ phần của đối tác. Phương thức này đặc biệt phổ biến trong quan hệ giữa nhà sản xuất với các nhà thầu phụ của họ

(4) Xem: Một cuộc chiến thương mại toàn cầu đang ngày một gay gắt hơn giữa Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc chắc chắn tác động nhiều mặt tới hệ thống kinh tế Việt Nam, Phân tích kinh tế Vebimo.com, ngày 18-3-2010

(5) http://www.tin247.com/cho_phep_thanh_lap_tap_doan_kinh_te_tu_nhan-3-21505875.html

6) Thu Hường: Không nên ban hành nghị định về tập đoàn kinh tế nhà nước, Báo Diễn đàn doanh nghiệp, ngày 24-11-2008

Cập nhật ( 25/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
“ Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận.”
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 2" (2023-2024) chuyên ngành Kiến trúc Công nghệ K65
+ Kế hoạch "Thực tập cán bộ kĩ thuật đợt 3" (2023-2024) ngành Kiến trúc K65
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 2" (2023-2024) ngành Kiến trúc K65
+ Danh sách lớp nguyện vọng - Học kì 2 (2023-2024)
+ Nhiệm vụ thiết kế "Đồ án Kiến trúc 5 - K66" (2023-2024)
+ Phân công giảng dạy Bộ môn KTCN, Học kỳ 2, Năm học 2023 – 2024
+ Phân công giảng dạy HK3 (2023 - 2024)
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 3" (2023-2024) chuyên ngành Kiến trúc Công nghệ K64
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 3" (2023-2024) ngành Kiến trúc K64

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com