Biểu diễn nghệ thuật tại Ngày hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2014.
Các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa đã đề xuất nhiều ý kiến thiết thực để thực hiện và đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, lối sống; về văn hóa chính trị - kinh tế, tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh và phát triển công nghiệp văn hóa, thực hiện hội nhập quốc tế.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành T.Ư Ðảng khóa XI (Nghị quyết T.Ư 9 khóa XI - Nghị quyết số 33 NQ/TW) về "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước" đã được ban hành ngày 9-6-2014. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn chiến lược và bước phát triển quan trọng trong tư duy, lý luận của Ðảng ta về văn hóa; về vị trí, vai trò của văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng cùng quá trình toàn cầu hóa với nhiều biến động về kinh tế - chính trị thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Trong phát biểu đề dẫn hội thảo, Thứ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hồ Anh Tuấn đã nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng mang tính chiến lược của Nghị quyết T.Ư 9 khóa XI (Nghị quyết T.Ư 9); là sự tiếp nối, kế thừa Nghị quyết T.Ư 5 khóa VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc" thời kỳ đổi mới, nhưng ở tầm cao hơn, mang lại những nhận thức mới về văn hóa, thể hiện quyết tâm của Ðảng ta trong việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Tại hội thảo, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, các nhà nghiên cứu, lý luận và quản lý văn hóa - xã hội trong cả nước đã thảo luận những vấn đề trọng tâm trong nội dung Nghị quyết T.Ư 9 và đóng góp nhiều ý kiến, bước đầu đề xuất, đưa ra các giải pháp nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết một cách thiết thực, khả thi, tập trung vào các vấn đề mới nảy sinh, nổi cộm và phức tạp về lý luận và thực tiễn trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam với bốn nhóm giải pháp lớn đã nêu trong Nghị quyết: Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng về văn hóa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; xây dựng đội ngũ cán bộ và tăng cường nguồn lực cho văn hóa.
Xây dựng hệ giá trị cốt lõi con người Việt Nam
Mục tiêu của Nghị quyết T.Ư 9 là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; đưa văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững. Trong đó, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là nhiệm vụ đầu tiên, được đặt ở vị trí quan trọng trong sáu nhiệm vụ của Nghị quyết nêu ra. Ðề cập về nhiệm vụ này, GS, TS Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư khẳng định: Suy cho cùng, mọi hoạt động phát triển văn hóa cũng đều hướng đến xây dựng con người, bởi con người là chủ thể của sáng tạo, là tài nguyên, nguồn lực quan trọng nhất để phát triển quốc gia. Vì thế, cần tập trung xây dựng con người Việt Nam với việc cụ thể hóa những chuẩn mực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Các chuẩn mực đó chính là "hệ giá trị con người", là những giá trị cốt lõi mà con người cần hướng tới như Nghị quyết T.Ư 9 đã chỉ ra: có nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật..., với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo... Ðể làm được điều này, cần huy động được mọi nguồn lực từ gia đình, nhà trường và cộng đồng cũng như sự chung tay giúp sức của toàn xã hội. Từ góc nhìn mở rộng mang tính thực tiễn về xây dựng con người, chăm lo bồi dưỡng nhân cách thế hệ trẻ, GS, TS Ðinh Xuân Dũng, Ủy viên Hội đồng Lý luận T.Ư cho rằng, việc lập kế hoạch và lộ trình để xây dựng và hoàn thiện hệ thống các hệ giá trị mới của con người Việt Nam là đòi hỏi rất cao và mới đối với văn hóa giai đoạn tới, bởi những năm qua, cuộc vận động xây dựng con người mới, tuy có bề rộng, nhưng chưa sâu, chưa bền vững, hiệu quả còn hạn chế và hình ảnh con người Việt Nam hiện đại còn mờ nhạt trong sáng tạo văn hóa, văn học - nghệ thuật. Do đó, cần tập trung cho việc cụ thể hóa hệ giá trị đó thành những mẫu hình, chuẩn mực phù hợp với từng giới, từng ngành, địa phương, đơn vị, kết hợp sâu sắc giữa giá trị truyền thống tốt đẹp và giá trị mới. Ðấu tranh kiên quyết chống sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Giáo sư cũng đề nghị cần triển khai chương trình giáo dục văn hóa, giáo dục thẩm mỹ, nâng cao chất lượng giáo dục khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục đạo đức, lối sống trong nhà trường, từ phổ thông đến đại học, bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, thiếu niên; nhấn mạnh tới bốn giá trị lớn mà văn hóa phải chăm lo nuôi dưỡng cho thanh niên là: lý tưởng sống, năng lực trí tuệ, vẻ đẹp đạo đức, bản lĩnh văn hóa. Ðể làm được điều này, cần phát huy vai trò của đội ngũ văn nghệ sĩ, những người hoạt động văn hóa. GS, TS Ðinh Xuân Dũng cũng thẳng thắn cảnh báo về tình trạng đường lối, chủ trương nghị quyết là đúng, nhưng tổ chức thực hiện kém, làm một cách hời hợt, hình thức, kết quả là chủ trương không đi vào được cuộc sống, vẫn nằm trên các trang giấy. Chính từ những lo ngại đó, GS, TS Ðinh Xuân Dũng đã đề nghị cần Thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Ðảng về văn hóa thành pháp luật, chính sách của Nhà nước, bảo đảm quá trình chăm lo bồi dưỡng nhân cách thế hệ trẻ, xây dựng con người phát triển một cách toàn diện.
Bổ sung vào quan điểm nêu trên, PGS, TS Từ Thị Loan, quyền Viện trưởng Văn hóa - Nghệ thuật quốc gia Việt Nam lưu ý: Cần nhanh chóng xác lập và hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Theo đó, kế thừa tất cả những gì tinh hoa trong cội nguồn văn hóa dân tộc, đồng thời bổ sung những giá trị mới của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hệ giá trị mới, định hướng giá trị của con người Việt Nam hiện nay cần được xây dựng và củng cố trong các mối quan hệ đa chiều: truyền thống và hiện đại, cá nhân và cộng đồng, lý tưởng và hiện thực, dân tộc và quốc tế, địa phương và nhân loại..., kiên quyết khắc phục các thói hư, tật xấu và những mặt hạn chế của con người Việt Nam, ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Có như vậy, việc hiện thực hóa hệ giá trị đó trong thực tiễn mới có tính khả thi, hiệu quả và có sức sống.
Ðể tạo dựng các giá trị văn hóa tốt đẹp trong con người, cần xây dựng và củng cố một môi trường văn hóa lành mạnh. Theo TS Vũ Thị Phương Hậu, Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, trong bối cảnh môi trường văn hóa Việt Nam còn nhiều tình trạng lai căng, ngoại lai, tệ nạn xã hội, tội phạm... có chiều hướng gia tăng, để làm trong sạch môi trường văn hóa, trước hết, cần tập trung xây dựng văn hóa gia đình và nâng cao nhận thức của xã hội, nhất là của lớp trẻ về gia đình, về văn hóa gia đình. Các lớp học tiền hôn nhân cần được tổ chức rộng khắp trên cả nước để trang bị những kiến thức cơ bản, cần thiết cho các bạn trẻ trước khi quyết định xây dựng tổ ấm cho mình. Bên cạnh đó, cần xây dựng và hình thành văn hóa công sở trong các cơ quan hành chính Nhà nước, nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi mà trong đó mọi thành viên đều có thể phát huy hết khả năng sáng tạo của mình, gánh vác nhiệm vụ do Nhà nước và nhân dân giao phó, đồng thời đáp ứng nhu cầu của nhân dân và phục vụ xã hội được tốt hơn. Một biện pháp quan trọng là kiện toàn hệ thống thiết chế văn hóa để các chính sách, giá trị văn hóa đi vào cuộc sống. Ðồng thời, phát triển và quản lý tốt thị trường văn hóa phẩm, vừa đáp ứng được mọi nhu cầu hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp trong xã hội, vừa tạo ra những định hướng, tác động tích cực đối với công chúng. Bàn về giải pháp thể chế hóa các chính sách về văn hóa, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai TS Trần Hữu Sơn nhấn mạnh, phải đặc biệt chú ý đến việc xây dựng cơ chế đặc thù để phát triển văn hóa cho từng vùng, miền. Ông đã nêu lên thực tiễn hoạt động và phát triển văn hóa ở khu vực miền núi phía bắc về cơ chế vận hành của đời sống văn hóa dân gian, người dân không chỉ có nhu cầu hưởng thụ mà còn trực tiếp tham gia sáng tạo, phân phối các sản phẩm văn hóa... Từ thực tế này, cần quan tâm nghiên cứu cơ chế vận hành dân gian để đề xuất các chính sách hỗ trợ, tổ chức các hoạt động văn hóa ở miền núi một cách phù hợp.
Xây dựng môi trường văn hóa còn là xây dựng môi trường pháp lý để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Nội dung này có liên quan mật thiết đến vấn đề xây dựng văn hóa trong kinh tế. Ðó là xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững. Một số đại biểu đã góp ý xây dựng văn hóa trong kinh tế, phải xây dựng chuẩn mực văn hóa phù hợp cho đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế; phải nâng cao hàm lượng văn hóa trong các sản phẩm kinh tế, gắn hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư với quảng bá văn hóa; đặt yêu cầu đánh giá tác động và nội dung phát triển văn hóa cụ thể đối với các dự án, quy hoạch phát triển kinh tế vùng, ngành và các dự án đầu tư quan trọng; đồng thời đa dạng hóa các nguồn lực kinh tế cho phát triển văn hóa. PGS, TS Trần Quốc Toản, lưu ý: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, cả về kinh tế, văn hóa, các yếu tố quốc tế hóa sẽ tác động không chỉ trực tuyến mà còn tác động đan chéo, thẩm thấu vào nhau giữa kinh tế và văn hóa, có thể đưa đến những xung đột và cộng hưởng, cả tích cực, tiêu cực, trong tương tác kinh tế - văn hóa. Ðây là điều cần nhận thức rõ trên tất cả các cấp độ phát triển văn hóa để hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện hình thành và phát triển các giá trị văn hóa, giá trị con người mới.
Trong xây dựng con người và xây dựng môi trường văn hóa, không thể không chú trọng đến giải pháp giáo dục, đào tạo, nguyên Viện trưởng Nghiên cứu con người PGS, TS Mai Quỳnh Nam khẳng định: Bản chất của xây dựng con người là đào tạo con người, và bản chất của đào tạo con người là đào tạo học vấn. Do đó, cần nâng cao chất lượng đào tạo ở các cơ sở giáo dục, bên cạnh đó, cũng cần có cái nhìn thẳng thắn vào những hạn chế trong tư tưởng, tính cách của người Việt Nam, xác định những rào cản trong vấn đề xây dựng con người để tìm giải pháp khắc phục, thay đổi. Theo TSKH Phạm Ðỗ Nhật Tiến, Bộ Giáo dục và Ðào tạo, việc xây dựng quan hệ đối tác giáo dục - văn hóa là lời giải cơ bản cho bài toán xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Quan hệ này cần được thiết lập dựa trên thế mạnh của từng đối tác, cùng chia sẻ trách nhiệm và nguồn lực, nhằm đem lại kết quả đầu ra mong muốn trong xây dựng con người Việt Nam. Trưởng Ban Tuyên truyền - lý luận Báo Nhân Dân, nhà báo Nguyễn Hòa đã nêu bật văn hóa khoa học và giáo dục là tiền đề quan trọng để phát triển bền vững. Ðể định hướng cho văn hóa giáo dục trong một tương lai dài, cần chấn chỉnh lại các đơn vị kiến thức giảng dạy trong trường học các cấp. Cần thiết phải nhấn mạnh nội dung giáo dục truyền thống, giáo dục công dân, không để tình trạng những môn học này thuần túy thi lấy điểm mà thiếu tác động tới sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ. Trong giáo dục, sự chệch hướng rất dễ nảy sinh từ các vấn đề nêu trên và hậu quả sẽ hết sức tai hại khi thế hệ tương lai không được đào tạo một cách đúng đắn.
Quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa
Ðể văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, nhất thiết phải xác định được vai trò của văn hóa trong tổ chức, hoạt động chính trị cũng như phát triển kinh tế - xã hội. GS, TS Hoàng Chí Bảo, Hội đồng Lý luận Trung ương nhấn mạnh: Xây dựng văn hóa trong chính trị là đòi hỏi tất yếu, làm cho chính trị vì con người, vì dân phải là chính trị có văn hóa, chính trị trở thành văn hóa chính trị và sự trưởng thành của mỗi con người chính trị, mỗi tổ chức chính trị, mỗi hoạt động, hành vi chấp chính cũng như tham chính đều được đo lường, đánh giá bằng thước đo văn hóa. Muốn xây dựng văn hóa trong chính trị, phải chú trọng xây dựng con người, hoàn thiện nhân cách trong hoạt động chính trị, từ những công dân của nhà nước pháp quyền đến cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ chức vụ, được giao trọng trách ở các cấp, các ngành. Theo ông, văn hóa trong chính trị, nhất là trong Ðảng, Nhà nước phải biểu hiện thành văn hóa trong Ðảng - văn hóa lãnh đạo, cầm quyền và trở thành văn hóa trong Nhà nước - văn hóa quản lý và quản trị. Ðội ngũ cán bộ, đảng viên của Ðảng, đội ngũ công chức của Nhà nước, của chính quyền các cấp trong hệ thống công quyền được giáo dục và thực hành văn hóa trong chính trị phải tỏ ra là những chủ thể của văn hóa chính trị, tận tụy, trách nhiệm, gương mẫu trong công việc, trong quan hệ, trong ứng xử với dân theo yêu cầu trọng dân và trọng pháp. Bàn về giải pháp xây dựng văn hóa trong Ðảng, GS, TS, NGND Trần Văn Bính, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Trong tình hình hiện nay, để xây dựng văn hóa trong Ðảng, phải tập trung chống chủ nghĩa cá nhân. Chỉ có quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì mới xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân...
Xây dựng văn hóa trong Ðảng cũng là cách để nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Ðảng và cấp ủy các cấp đối với lĩnh vực văn hóa, mà giải pháp nòng cốt là tập trung xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa từ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý đến cán bộ làm công tác khoa học, đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ... Theo Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật T.Ư PGS, TS Ðào Duy Quát, để thực hiện giải pháp cơ bản và quan trọng này, cần chú ý đến bốn nội dung: Thứ nhất, tập trung xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa, trong đó coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; bố trí cán bộ làm công tác khoa học. Thứ hai, quan tâm xây dựng các trường văn hóa nghệ thuật, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô đào tạo. Thứ ba, đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Tiếp tục gửi sinh viên, cán bộ đi đào tạo chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật, thể thao ở các nước phát triển. Xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ trong các dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương. Chú trọng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa. Thứ tư, có chính sách phát hiện, bồi dưỡng sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Ðiều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.
Cần có một nền công nghiệp văn hóa phát triển
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, công nghiệp văn hóa cần trở thành mũi nhọn phát triển của Việt Nam. Theo cách định nghĩa của Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam thì "Công nghiệp văn hóa là sự ứng dụng của những tiến bộ khoa học công nghệ và kỹ năng kinh doanh, sử dụng năng lực sáng tạo, nguồn vốn văn hóa để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ văn hóa của người dân". Tại cuộc hội thảo, TS Ðỗ Thị Thanh Thủy, Viện Văn hóa - Nghệ thuật quốc gia Việt Nam cho rằng, muốn phát triển công nghiệp văn hóa, giải pháp hàng đầu là cần đổi mới phương thức quản lý của Nhà nước. Về đầu tư, quan điểm chung là Nhà nước cần đầu tư cho các ngành công nghiệp văn hóa (đặc biệt các loại hình dịch vụ công) chứ không thể bỏ mặc cho thị trường. Tuy nhiên cần xác định mức độ đầu tư phù hợp với từng ngành nghề, từng trường hợp cụ thể, đồng thời cũng khuyến khích các ngành công nghiệp văn hóa thương mại hóa đầu ra và thu hút thêm các nguồn đầu tư khác, thí dụ bảo trợ, tài trợ doanh nghiệp và quảng cáo. Nhà nước cũng cần tạo môi trường thúc đẩy sáng tạo và chấp nhận những ý tưởng mới, xúc tác, hỗ trợ, vinh danh cho tài năng và doanh nghiệp, có cơ chế bồi dưỡng và tập hợp nhân tài từ chỗ non trẻ đến chỗ trưởng thành.
Phó Viện trưởng Văn hóa - Nghệ thuật quốc gia Việt Nam PGS, TS Bùi Hoài Sơn cho rằng, muốn phát triển công nghiệp văn hóa cần phải định vị được thương hiệu văn hóa Việt Nam, bởi thương hiệu là sự bảo đảm về chất lượng và uy tín của sản phẩm nói riêng và nền kinh tế - văn hóa nói chung. Vì thế, cần xây dựng thương hiệu cho các cá nhân nghệ sĩ, người sáng tạo, cho doanh nghiệp, tổ chức sáng tạo và cho quốc gia sáng tạo. Xây dựng thương hiệu cho các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam cần gắn với việc bảo vệ bản quyền và các quyền liên quan. Vấn đề bản quyền luôn quan trọng vì nó giúp kích thích sự sáng tạo của người nghệ sĩ, khiến cho nghệ sĩ có thể chuyên tâm hơn vào công việc của mình mà không bị phân tán sự chú ý của mình vào những công việc khác, trái nghề để nuôi sống bản thân và gia đình.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc hội nhập văn hóa và tiếp thu có chọn lọc các tinh hoa văn hóa thế giới là xu hướng tất yếu của phát triển văn hóa. PGS, TS Phạm Duy Ðức, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, một trong những giải pháp quan trọng để chủ động hội nhập văn hóa là cần xây dựng môi trường đối ngoại văn hóa lành mạnh, nhất là xây dựng một số trung tâm văn hóa ở trong nước và nước ngoài có chức năng "môi giới", lựa chọn, phiên dịch, giới thiệu những thành tựu văn hóa của thế giới vào Việt Nam và Việt Nam ra nước ngoài. Ðặc biệt chú ý tới vai trò của thông tin văn hóa đối ngoại trên các phương tiện truyền thông đại chúng, trong các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, các trường đại học, các viện nghiên cứu.
Bàn về việc thúc đẩy thế chủ động trong hội nhập quốc tế về văn hóa, nhiều đại biểu tham dự Hội thảo đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của việc phát huy "sức mạnh mềm" của các giá trị văn hóa. TS Nguyễn Thị Thu Phương, Viện Nghiên cứu Trung Quốc (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) đã đưa ra khái niệm phổ biến và mang tính toàn vẹn mà thế giới đang công nhận như sau: "Sức mạnh mềm văn hóa là sức hấp dẫn, thu phục, khả năng ảnh hưởng, lôi cuốn của một quốc gia đối với các quốc gia khác bằng các giá trị văn hóa, tinh thần, hệ tư tưởng được thực hiện thông qua các phương thức mang tính phi cưỡng chế... nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của quốc gia đó trong quan hệ quốc tế. Sức mạnh mềm văn hóa còn là khả năng một quốc gia chủ động tiếp nhận, hấp thu, tiếp biến có chọn lọc những tinh hoa văn hóa từ bên ngoài, đồng thời có sức chống đỡ, hóa giải được những tác động nguy hại, gây xói mòn các giá trị nền tảng và làm suy yếu bản sắc văn hóa, gây tổn hại chủ quyền văn hóa quốc gia". Với nội hàm đó, theo Viện trưởng Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh TS Nguyễn Toàn Thắng, để gia tăng sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, trước tiên cần tôn trọng luật pháp quốc tế, thực hiện đạo lý nhân loại, phát huy sức cảm hóa và sức hấp dẫn của CNXH. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh phát triển truyền thông đại chúng, quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam trên toàn cầu; tập trung xây dựng "sức mạnh mềm" văn hóa trong cộng đồng dân cư, thường xuyên giáo dục nâng cao dân trí cộng đồng trên cơ sở coi trọng và phát huy vai trò của triết học mác-xít, khoa học xã hội.
Với những góc độ tiếp cận đa dạng về văn hóa học, xã hội học, Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề "Những giải pháp tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW (Nghị quyết T.Ư 9) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước" đã đưa ra được những giải pháp để triển khai thực hiện Nghị quyết. Kết luận hội thảo, GS, TS Phùng Hữu Phú nhấn mạnh, những tư tưởng, nội dung chủ đạo của Nghị quyết cần tiếp tục được hoàn thiện và quán triệt, tuyên truyền sâu hơn, rộng hơn trong Ðảng và toàn xã hội. Trên cơ sở đó, cần xây dựng một chương trình tổng thể để triển khai Nghị quyết, bảo đảm tính toàn diện, trọng điểm, rõ lộ trình, bước đi và kế hoạch hành động cụ thể. Muốn thế, cần rà soát lại để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện thể chế phát triển văn hóa nhằm phát huy tốt nhất những giá trị sáng tạo văn hóa. Ðiều quan trọng để Nghị quyết thật sự đi vào đời sống cần huy động sự vào cuộc tích cực, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của cả hệ thống chính trị.
Hội thảo ghi nhận các ý kiến tâm huyết, đầy trách nhiệm và khoa học của các đại biểu với nhiều giải pháp thiết thực, mang tính gợi mở cho việc xây dựng một lộ trình, chiến lược dài hơi để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Việc chủ động tổ chức một cuộc hội thảo khoa học quốc gia mang tính liên ngành này đã thể hiện sự ủng hộ và quyết tâm của nhiều cấp, ngành, cơ quan nhà nước trong việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị T.Ư lần thứ 9 của Ban Chấp hành T.Ư Ðảng khóa XI.