Tuần -18 - Ngày 29/03/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Lịch sử Kiến trúc
Đình, đền tại Khu di tích Phố Hiến, Hưng Yên, Việt Nam
20/03/2020

Thông tin chung:
Công trình: Văn Miếu Xích Đằng; Đền Mây; Đền Kim Đằng; Đình An Vũ; Đền Nam Hòa; Đền Trần; Đến Mẫu; Đền Thiên Hậu; Đền Bà Chúa Kho; Võ Miếu; Đền Cửu Thiên Huyền Nữ; Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu Cung thuộc Khu di tích Phố Hiến
Địa điểm: thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên
Quy mô: gồm 12 di tích trong tổng số 16 di tích chính
Năm hình thành: Thế kỷ 15- 17
Giá trị: Di tích Quốc gia đặc biệt (Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, năm 2014) 

Phố Hiến
Phố Hiến tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên là một địa danh lịch sử ở Việt Nam.
Vào thế kỷ 17, đây là một thương cảng nổi tiếng của Việt Nam và được biết tới như một "Vùng đất lành" của khu vực Đông Á, tương tự như Hội An, Quảng Nam. Ngoài kinh đô Thăng Long - Kẻ Chợ phồn vinh nhất nước, Phố Hiến đã là một đô thị nổi bật đứng ở vị trí thứ hai. Dân gian có câu: "Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến".  

Lịch sử hình thành và phát triển
Ngay từ thời Hùng Vương, các thày địa lý đã chia châu thổ Bắc Bộ thành 3 vùng: Thượng châu thổ với đỉnh của các triền sông là Việt Trì; Trung châu thổ với đỉnh là Cổ Loa; Hạ châu thổ với đỉnh là Phố Hiến. Trong Tứ bất tử của Việt Nam, vị Thánh thứ 3 là Chử Đồng Tử (thời Hùng Duệ Vương, vua Hùng thứ 18, thế kỷ 3 TCN), tượng trưng cho sự thịnh vượng, được cho là có liên quan đến việc hình thành tuyến giao thương buôn bán Kẻ Chợ, Thăng Long – Phố Hiến, Hưng Yên sau này. .
Tại Hạ châu thổ, các nhánh sông trải ra vùng đồng bằng như những chiếc nan quạt. Phố Hiến xưa nằm sát bên bờ tả ngạn sông Hồng (ngày nay do phù sa bồi đắp nên cách sông khoảng chừng 2 km). Theo đường sông, Phố Hiến cách Kinh Đô Thăng Long – Kẻ Chợ 55 km. Từ Thăng Long xuôi thuyền xuống Phố Hiến mất khoảng 2 ngày, ngược dòng lên mất 3 ngày.
Bằng đường thuỷ, Phố Hiến trở thành nơi trung chuyển, cửa ngõ án ngữ hoặc thông thương của mọi tuyến giao thương đường sông từ vùng biển Bắc Bộ đi sâu vào đất liền tới Kinh đô Thăng Long, qua các tuyến sông Đáysông Hồngsông Thái Bình.
Thế kỷ 10, vùng Đằng Châu ở phía Bắc thành phố Hưng Yên ngày nay vốn là một lãnh địa của sứ quân Phạm Bạch Hổ (910- 972). Ông đã gây dựng nơi đây thành thủ phủ một vùng đất rộng lớn và là một trung tâm quân sự thời 12 sứ quân. Đến thời Tiền Lê (Đại Cồ Việt, tồn tại 980- 1009), vùng đất này tiếp tục là căn cứ hậu cần của Lý Công Uẩn (sau này là vua Lý Thái Tổ, sáng lập triều Lý, trị vì 1009- 1028). 
Thế kỷ 13, dưới thời nhà Trần (Đại Việt, tồn tại 1225-1400), khi nhà Nguyên (Trung Quốc, tồn tại 1271- 1368) diệt nhà Tống (Trung Quốc, tồn tại 960 -1279), một số người Trung Hoa (chính trị gia, thương gia) chạy sang Việt Nam tị nạn. Tại Phố Hiến, họ lập nên làng Hoa Dương. Một số người Việt từ nhiều địa phương khác nhau cũng tìm đến địa điểm này để giao lưu, buôn bán và định cư.
Theo sử sách, tên Phố Hiến có xuất xứ từ chữ Hiến của Hiến Doanh hay Hiến Nam, vốn là cơ quan hành chính của trấn Sơn Nam xưa, được cho xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 15, thời vua Lê Thánh Tông (hoàng đế thứ 5 của triều Hậu Lê, trị vì 1460- 1497).
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 17, Phố Hiến mới trở thành một trung tâm kinh tế với nhiều mối giao lưu trong nước và quốc tế. Lúc này, ở Phố Hiến có các công sở của trấn lỵ xứ Sơn Nam, cũng như các trạm tuần ty kiểm soát thuyền bè trong và ngoài nước.
Thế kỷ 17, giao thương giữa Phố Hiến đạt đến thời điểm cực thịnh, trở thành điểm nút trung chuyển quan trọng trên tuyến giao thương giữa Đàng Ngoài với các đô thị thương cảng tại Đàng Trong, vươn ra các tuyến giao thông quốc tế trên biển tới Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực Đông Nam Á, các nước phương Tây như Bồ Đào NhaHà LanAnhPháp...
Phố Hiến trở thành một đô thị kinh tế nổi bật tại vùng Hạ châu thổ Bắc Bộ. 


Bản đồ Phố Hiến xưa, Hưng Yên


Suy thoái
Vào đầu thế kỷ 18, các tuyến giao thương trực tiếp bằng đường biển tại Trung Quốc, Nhật Bản trở nên thông thoáng hơn sau khi các quốc gia này dỡ bỏ lệnh cấm vận. Cùng với sự phát triển của các đội tầu có tải trọng lớn, vai trò của cảng biển (nước sâu) tại khu vực Đông Á dần trở nên quan trọng hơn cảng sông. Bến cảng Phố Hiến do sự bồi lở của sông Hồng chỉ có khả năng tiếp nhận thuyền buôn nhỏ. Trạm hải quan tại Phố Hiến đã được chuyển qua bến cảng biển Ninh Hải (Hải Phòng).  
Các loại hàng hóa xưa sản xuất tại Đàng Ngoài (tơ sống, quế…) đã trở nên phổ biến tại các quốc gia Đông Á.
Các vị quan cai trị những giai đoạn sau này không còn được như xưa, vấn nạn tham nhũng, quấy nhiễu thương nhân lan tràn. Phố Hiến không còn là nơi đất lành.
Ngoại thương tại điểm trung chuyển Phố Hiến dần suy giảm. Các thương điếm phương Tây ở Phố Hiến lần lượt đóng cửa. Phố Hiến vắng hẳn các khách buôn nước ngoài, trừ người Trung Quốc.
Năm 1726, vào thời Lê - Trịnh (1545- 1787) trấn lị Sơn Nam được chuyển sang bên hữu ngạn sông Hồng thuộc huyện Duy Tiên (Hà Nam). Năm 1741, trấn Sơn Nam được tách thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ. 
Sang thế kỷ 19, vào thời nhà Nguyễn (tồn tại năm 1802 -1945), kinh đô nước Việt chuyển vào Huế. Năm 1804, trấn lị Sơn Nam Thượng từ Phố Hiến đã được di chuyển về Châu Cầu (Phủ Lý). Năm 1831, tỉnh Hưng Yên được thành lập, Phố Hiến chỉ còn mang chức năng hành chính.  

Cộng đồng dân cư Phố Hiến
Trong lịch sử phát triển, với vị trí giao thương thuận lợi, Phố Hiến đã trở thành nơi dành cho cả người Việt và người nước ngoài đến đây sinh sống, ví dụ như Trung Quốc, Nhật, Thái Lan, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…Trong đó người Việt và người Hoa có vai trò quan trọng.
Tại văn bia chùa Hiến dựng năm 1709, đã liệt kê tới hơn 50 địa phương khắp miền Bắc có người đến Phố Hiến làm ăn, sinh sống.
Bên cạnh cộng đồng người Việt, đông đảo người Hoa đã đến cư trú tại Phố Hiến.
Người Hoa đến đây từ hai nguồn chính:
Thứ nhất, họ là những người Hoa vượt biển từ Trung quốc sang Việt Nam tị nạn chính trị, khi nhà Nguyên (tồn tại 1271- 1368) diệt nhà Tống (tồn tại 960 -1279) và nhà Thanh (tồn tại 1636 – 1912) diệt nhà Minh (tồn tại 1368- 1644).
Thứ hai, họ là những thương nhân buôn bán trên biển, có quê gốc tại miền Nam Trung Quốc. Ngoài ra, những thương nhân này còn đến từ đường bộ qua biên giới, hoặc từ Thăng Long – Kẻ Chợ về đây buôn bán.
Những người Hoa lập các cửa hiệu, tập trung thành các phố thương mại. Ngoài nhà ở, cửa hàng, họ còn xây dựng nhiều chùa, đền, miếu, hội quán để lưu giữ Thần đạo của người Trung Quốc. Theo thời gian, những người này hòa nhập với cộng đồng người Việt và trở thành người Việt. Địa điểm tụ cư đầu tiên của người Hoa ở Phố Hiến là Hoa Dương, sau gộp thêm các xã Hoa Điền (Lương Điền), Hoa Cái (Phương Cái) hợp thành Tam Hoa. Các cửa hiệu của Hoa Kiều phổ biến là buôn bán vải vóc, đồ sứ, tạp hóa, thuốc Bắc; được tập trung ở phố Khách, phố Bắc Hoà, Nam Hoà; nhiều nhà xây gạch ngói. Người ta cho rằng, hiện vẫn có tới 14 dòng họ gốc Hoa Kiều sinh sống ở Phố Hiến như các họ: Ôn, Tiết, Hoàng, Lý, Trần, Bạch, Quách, Mã, Thái, Hà, Hứa, Từ, Lâm, Khu…
Sau này, khi giao thương với châu Âu phát triển, người Hoa còn có vai trò vận chuyển thuê cho các thương gia đến từ các nước châu Âu như Hà Lan, Anh (Công ty Đông Ấn) và các quốc gia tại khu vực Đông Á.
Họ vận chuyển tơ sống (xuất sang Nhật Bản); bạc và đồng (nhập từ Nhật); hồ tiêu, đường, lưu huỳnh, diêm tiêu (nhập từ các quốc gia Nam Á); lụa, đồ gốm, sơn mài (xuất đi Batavia, thủ phủ của Đông Ấn Hà Lan, ngày nay là Jakarta, Indonesia)…
Vào thế kỷ 18, 19, khi việc buôn bán sa sút, các thương gia người Hoa một phần trụ lại Phố Hiến, một phần quay trở lại Thăng Long – Hà Nội.
Người Nhật cũng đến Phố Hiến vào khoảng đầu thế kỷ 17, chủ yếu là các thương nhân buôn bán xuyên đại dương. Họ mang bạc, đồng đến đây mua, đổi các loại tơ. Vào năm 1635, thời Mạc phủ Tokugawa, (chính quyền do tầng lớp võ sĩ Nhật Bản lãnh đạo, trị vì từ năm 1603- 1868, triều đình Thiên Hoàng chỉ có ý nghĩa tượng trưng) với sự ra đời của Luật bế quan tỏa cảng (Tòa Quốc), chỉ các chuyến tàu hồi hương mới được phép cập bờ. Nhiều kiều dân Nhật Bản không dám trở về và lưu lại Phố Hiến (cũng như Hội An, Quảng Nam, Việt Nam). Những người Nhật này thường làm những nghề như hoa tiêu dẫn tàu thuyền vào cửa sông, phiên dịch, môi giới…Một số người lập các lò sản xuất gốm Hizen với các vật dụng điển hình như ấm, chén, bình rượu, hộp nhỏ, được trang trí bởi các loại men và hình tượng mang đậm văn hóa Nhật Bản. Tại đây còn có nghĩa trang dành riêng cho người Nhật Bản.
Ngoài ra, tại Phố Hiến còn có các thương nhân Châu Á khác như Thái Lan, Malaysia, Philipin…
Thương nhân phương Tây đến Phố Hiến chủ yếu là người Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh và Pháp. Người Bồ Đào Nha đến sớm nhất, vào năm 1626. Một số người phương Tây đến đây kết hợp việc buôn bán với truyền giáo.  

Phố Hiến – Đô thị kinh tế và văn hóa
Phố hiến là một đô thị trải dài theo bờ tả ngạn sông Hồng (đoạn sông Xích Đằng), ngày nay tương ứng với phần đất của thôn Đằng Châu (xã Lam Sơn, thành phố Hưng Yên) và thôn Nễ Châu (xã Hồng Châu, thành phố Hưng Yên) trên một diện tích 5km x 1km, khoảng 500ha. Phố Hiến được sử sách miêu tả là một phố thị khá lớn với chừng 2000 nóc nhà, tương đương khoảng 1 vạn dân.
Phố Hiến là một đô thị tương đối đặc biệt, không có thành lũy bao quanh, chỉ có yếu tố thị mà không có yếu tố thành, mặc dù tại đây cũng có đồn binh với nhiều quân sĩ đồn trú.
Các vị quan cai trị Phố Hiến không chỉ được triều đình tín nhiệm, dân chúng yêu mến mà còn được cả các thương gia nước ngoài nể trọng. Một trong những vị quan có công mở mang, xây dựng Phố Hiến là Quận công Thái Bảo Lê Đình Kiên (1620-1704), quan dưới thời Lê Trịnh. Ông là vị quan tài năng, đức độ, không những có tài về cai trị mà còn giỏi thương nghiệp, ngoại giao, nổi tiếng trong việc giao thiệp với các thương nhân ngoại quốc đến buôn bán tại Phố Hiến.  
Lúc ông mất, cả người Việt và người nước ngoài ngụ ở Phố Hiến đều dựng miếu thờ, tạc bia ghi công ông.
Trên tấm bia khắc ca ngợi ông, một thương nhân Trung Quốc viết: “Ngài yêu dân như yêu con, dẹp yên giặc biển, tiết kiệm tiêu pha, ngay cả con trẻ cũng biết và ca ngợi lòng trung của ngài với vua với nước…Là những thương nhân đến từ xa, không dám tự coi mình là những thần dân, nhưng vì đã sống lâu năm ở Việt Nam, chúng tôi tỏ lòng nhiệt thành sủng ái ngài…”.
Nhiều viên quan cai trị tại Phố Hiến được coi là đại thần của quốc gia, là mẫu mực về giải quyết các việc công.
Phố Hiến từ một điểm dân cư trở thành một đô thị kinh tế lớn vào thế kỷ 17. Lúc đầu là các hoạt động buôn bán qua mạng lưới chợ. Sau đó, thương nghiệp ngày càng phát triển và trở thành hoạt động kinh tế mũi nhọn,  xuất hiện sự chuyển dịch trọng tâm từ kinh tế nội sinh (thủ công nghiệp, buôn bán trong nước) sang kinh tế ngoại sinh (buôn bán với nước ngoài).
Ngoài chức năng là trung tâm hành chính trấn Sơn Nam với các cơ quan công quyền, Văn Miếu (nơi tổ chức các cuộc thị lựa chọn hiền tài)… diện mạo đô thị kinh tế của Phố Hiến thể hiện qua các không gian chức năng: Bến cảng sông; Hệ thống chợ; Khu phố phường; Hiệu buôn của người nước ngoài, đặc biệt là phương Tây.
Bến cảng Phố Hiến là nơi các tàu thuyền ngoại quốc lưu đỗ để làm thủ tục kiểm soát và xin giấy phép đi tiếp tới Kinh đô.
Cùng với bến cảng là hệ thống các khu chợ khá sầm uất như chợ Vạn, chợ Hiến, chợ Bảo Châu...Những chợ này đã vượt khỏi khuôn khổ những chợ địa phương để thành các chợ liên vùng, liên quốc gia. 
Khu phố phường là các khu định cư của người Việt và các kiều dân ngoại quốc (chủ yếu là người Hoa),
Theo các văn bia ở chùa Hiến (1709) và chùa Chuông (1711), Phố Hiến thời đó có khoảng 20 phố phường. Qua các bi ký, có thể đọc được 13 phố và 32 tên cửa hiệu buôn bán như các Tân Thị, Tân Khai, Tiên Miếu, Hậu Trường…
Trong thế kỷ 17, các hiệu buôn (thương điếm) của người Phương Tây đã được dựng lên ở Phố Hiến, ví như: Thương điếm Hà Lan (1637-1700) buôn bán tơ sống, quế; Thương điếm Anh (1672-1683) buôn bán nguyên liệu lưu huỳnh tạo thuốc súng, vũ khí, hợp kim kẽm – đồng – sắt để đúc tiền, các loại dạ và vải khổ rộng của Anh, đồ kỹ xảo ngoại quốc dành cho vua chúa; đặt mua để xuất khẩu tơ lụa, đồ gỗ sơn mài, gốm sứ, hương liệu, xạ hương, lâm thổ sản…Phương thức mua bán ngoài việc trả tiền mặt còn có trao đổi hàng hóa.. Mỗi thương điếm là một quần thể kiến trúc văn phòng đại diện kiêm nhà kho của các Công ty Đông Ấn (Hà Lan, Anh). Các công trình được xây bằng gạch, sau này đã bị phá hủy hoàn toàn.  

Kiến trúc tại đô thị Phố Hiến là sự đa dạng phong cách, từ kiến trúc Việt Nam, kiến trúc Trung Hoa (tại vùng Phúc Kiến, miền Nam Trung Quốc) đến kiến trúc châu Âu (ví như phong cách kiến trúc Gothic của nhà thờ Phố Hiến)... 

Truyền thuyết về Chuông thần
Có nhiều truyền thuyết về Phố Hiến, trong đó có liên quan đến chùa Chuông và chuông chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, Hà Nội).
Khi dời kinh đô từ Hoa Lư, Ninh Bình về Đại La, Thăng Long, để khơi thông nguồn lực, năm 1108, vua Lý Nhân Tông (Hoàng đế thứ 4 triều Lý, trị vì năm 1072-1128) cho đúc một chiếc chuông lớn đặt tại chùa Diên Hựu, tên là Giác Thế Chung (chuông Thức tỉnh thiên hạ). Đây được xem là một trong Tứ đại khí của Việt Nam thời Lý, bao gồm: Tháp Báo Thiên, Chuông Qui Điền, Vạc Phổ Minh và Tượng Phật Quỳnh Lâm.
Chuông chùa thường có hai dạng: Chuông treo trong tháp gọi là tháp chuông và chuông đặt trên mặt đất trong một tòa nhà gọi là tòa chuông. Chuông chùa Diên Hựu to nên đặt trên mặt đất, trong tòa chuông, tại rìa chùa. Rùa ngoài ruộng thường bò vào trú bên trong, nên dân gian gọi đây là chuông Quy Điền.
Điều kỳ diệu là khi chuông Quy Điền ngân lên, bao nhiêu vàng bạc, châu báu và hiền tài của thiên hạ theo đó đổ về. Thăng Long thành đất Kinh kỳ phồn thịnh.
Người phương Bắc lo sợ, nhiều lần cử người tìm đến. Người dân bèn mang chuông giấu đi, chỉ cho một số ít người tin cậy biết, để truyền lại cho đời sau.
Đầu thế kỷ 15, nhà Minh xâm lược Đại Việt, quyết cho quân phá chuông Quy Điền.
Vào thời điểm này, xảy ra một trận đại hồng thủy trên sông Hồng. Tại thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, Hưng Yên, có một quả chuông trôi vào bãi sông. Dân làng cho là Trời, Phật mách bảo bèn góp công của dựng chùa, xây tòa đặt chuông, gọi là Kim Chung Tự - chùa Chuông Vàng. Khi chuông chùa ngân lên, không chỉ vàng bạc, châu báu mà cả hiền tài của thiên hạ theo đó đổ về Phố Hiến. Nơi đây trở nên trù phú, ngoài Kinh kỳ Thăng Long, không đâu sánh kịp. Người dân cho rằng, chuông tại chùa Chuông chính là chuông Quy Điền. Trong chùa Chuông có một tấm bia đá ghi lại các sự kiện thịnh vượng của Phố Hiến, như muốn báo với Tiền nhân về công tích của Chuông thần.
Người phương Bắc biết, lại cử người tìm đến. Người dân lần nữa lại mang chuông giấu kỹ.
Từ khi Chuông thần không ngân vang, tiền của không đổ về, hiền tài không hội tụ. Phố Hiến dần suy tàn.  

Khu di tích Phố Hiến
Khu di tích Phố Hiến gồm 16 di tích tiêu biểu, đại diện cho khoảng 100 di tích lịch sử được bảo tồn và lưu giữ tại Phố Hiến, phân bố trong 6 phường, xã của thành phố Hưng Yên:
Phường Lam Sơn: Văn Miếu Xích Đằng, đền Mây, đền Kim Đằng;
Phường Hiến Nam: Chùa Chuông, đình An Vũ, đền Nam Hòa;
Phường Quang Trung: Chùa Phố, đền Trần, đến Mẫu, đền Thiên Hậu, đền Bà Chúa Kho, Võ Miếu;
Phường Lê Lợi: Đền Cửu Thiên Huyền Nữ;
Phường Hồng Châu: Đình- chùa Hiến, Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu Cung;
Xã Hồng Nam: Chùa Nễ Châu.   
Dưới đây là 12 di tích đình, đền, miếu trong 16 di tích tiêu biểu trên: 

Văn Miếu Xích Đằng
Văn Miếu Hưng Yên tọa lạc tại khu phố Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên nên được gọi là Văn Miếu Xích Đằng. Công trình là một trong số di tích lịch sử của Khu di tích Phố Hiến.
Văn Miếu Xích Đằng là nơi thờ Vạn thế sư biểu Khổng Tử (người Trung Hoa, 551 - 479 TCN, sáng lập ra Nho giáo) và các chư hiền của Nho gia. Cùng phối thờ với Khổng Tử là nhà giáo Chu Văn An (người Việt Nam, 1292 – 1370, hiệu trưởng đầu tiên của Văn miếu Quốc Tử Giám).
Vào thế kỷ 15, dưới thời vua Lê Thánh Tông (hoàng đế thứ 5, nhà Hậu Lê, trị vì từ năm 1460- 1497), nhiều chính sách nhằm hoàn thiện bộ máy hành chính, kinh tế, giáo dục – khoa cử, luật pháp được ban bố gắn với việc chấn hưng lại Đạo Nho. Để tìm kiếm người tài cống hiến cho quốc gia, vua Lê Thánh Tông đặt lệ 3 năm mở 1 khoa thi lớn, cho cho phép những người thi đỗ được về quê vinh quy bái tổ, lại cho dựng văn bia ghi tên họ ở Văn Miếu. Trong thời ông trị vì có tới 12 kỳ thi lớn, lấy đỗ hơn 500 người.
Những năm sau này, các vị vua tiếp theo cho thành lập thêm nhiều trường học (Văn Miếu) tại các trấn. Ở trấn Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, một phần đất của Hà Nội và Hưng Yên) có Văn miếu Xích Đằng (hay còn có tên là Văn miếu Sơn Nam), được xây dựng vừa làm nơi để thờ tự các bậc hiền nho, vừa là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn. Khi chia tách lại các trấn, Vắn Miếu Xích Đằng trở thành Văn Miếu của trấn Sơn Nam Thượng và sau này của tỉnh Hưng Yên.
Tương truyền, Văn Miếu Xích Đằng được xây dựng trên nền ngôi chùa cổ Nguyệt Đường, do Hương Hải thiền sư khởi dựng năm 1701, dưới sự trợ giúp của Quận công Lê Đình Kiên - quan trấn thủ trấn Sơn Nam.
Dấu tích còn sót lại của ngôi chùa cổ là hai ngôi mộ tháp đá, bên trong đặt xá lị của hai vị sư tổ trụ trì chùa: Phương Trượng tháp” cao 5 tầng thờ Viên Thông đại hòa thượng; “Tịnh Mãn tháp” cao 3 tầng thờ Hương Hải thiền sư.  

Văn Miếu Xích Đằng còn là nơi tôn vinh Nho giáo (Khổng giáo) của người Hoa và người Việt tại Phố Hiến.
Công trình được khởi dựng vào những năm cuối thời Hậu Lê. Quy mô ban đầu còn nhỏ, năm 1839, thời Nguyễn (1802–1945) được xây dựng lại có quy mô như hiện nay.
Vào thời Nguyễn, Văn Miếu Xích Đằng là nơi tổ chức các kỳ thi Hương và sát hạch thí sinh đi dự kỳ thi Hội.
Đây là một trong số sáu Văn miếu xưa còn tồn tại trong cả nước (Văn Miếu- Quốc Tử Giám, Hà Nội; Văn miếu Xích Đằng, Hưng Yên; Văn miếu Mao Điền, Hải Dương; Văn miếu Bắc Ninh; Văn thánh miếu Huế; Văn miếu Vĩnh Long…). 
Lễ hội hàng năm tại Văn Miếu Xích Đằng diễn ra vào 4 - 5 tháng Giêng âm lịch.

Văn Miếu Xích Đằng rộng 6000m2, có bố cục quay về hướng Nam, gồm: Nghi môn, Sân, Chính điện và các công trình phụ trợ khác.


Phối cảnh tổng thể Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên


Nghi môn
Nghi môn (Tam quan) Văn Miếu Xích Đằng được xây dựng đồ sộ, bề thế (như Nghi môn Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội) gồm 2 tầng. Tầng dưới tạo thành Tam quan với 3 cửa vòm, được giới hạn bởi các trụ ốp tường, tạo thành các ô trang trí câu đối. Cửa vòm giữa cao, rộng; 2 cửa vòm hai bên nhỏ và thấp. Tấng 2 gồm 3 khối; Khối chính giữa có mặt trước và sau với ô cửa hình tròn, mái 2 tầng, 8 mái; 2 khối hai bên có mặt trước và mặt sau với ô cửa vòm, mái 1 tầng 4 mái. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi Hương trước đây.
Phía trước Nghi môn là một đôi nghê đá được tạc từ thế kỷ 18 với đuôi dài và thân được chạm khắc vân mây.
Nghi môn Văn Miếu Xích Đằng là công trình kiến trúc đặc sắc vẫn giữ nguyên vẹn từ khi xây dựng và hiện được sử dụng như là biểu tượng văn hóa tại tỉnh Hưng Yên. 


Nghi môn Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên

Sân Văn Miếu
Sau Nghi môn là một sân rộng, lát gạch. Hai bên được giới hạn bởi Lầu chuông, Lầu khánh và hai dãy Tả vu, Hữu vu. Đây là nơi diễn ra các kỳ thi Hương.
Giữa sân có một đường Thập đạo bằng gạch, được xây nổi lên trên mặt sân, chia sân thành 4 ô lớn, là nơi các sĩ tử ngồi thi. Giao của đường thập đạo đặt một tháp bằng tre, nơi giám khảo ngồi quan sát thí sinh làm bài.
Lầu chuông và Lầu khánh có mặt bằng hình vuông, kiến trúc xây gạch đơn giản, 1 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái.
Lầu chuông treo quả chuông bằng đồng, đúc năm 1804. Lầu khách treo một khánh đá, dựng năm 1803.
(Tại Văn miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội, Lầu khánh được thay bằng Lầu trống).
Tả vu và Hữu vu là tòa nhà 5 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái. Cột hàng hiên và trụ biểu nhô ra tại tường hồi đều có các ô trang trí câu đối. Xưa kia, đây là nơi các quan để cỗ kiệu, sửa soạn mũ áo trước khi vào lễ Khổng Tử. Ngày nay, đây là nơi trưng bày những hình ảnh về giáo dục và du lịch tỉnh Hưng Yên.  


Đường Thập đạo tại sân Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên


Tòa Tả vu và Lầu chuông tại sân trong Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên



Lầu chuông Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên


Lầu khánh 
Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên

Chính điện
Chính điện hay Nội tự có kiến trúc kiểu chữ tam, bao gồm 3 tòa đặt song song với nhau: Tiền đường, Trung đường và Hậu đường, kiểu "trùng thiềm điệp ốc"(mái nối liền nhau), theo kiểu kiến trúc cung đình Huế triều Nguyễn.
Tiền đường gồm 5 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái. Chiều rộng của nhà mỏng như một hàng hiên.
Trung đường gồm 5 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái, chiều dài như nhà Tiền đường, song chiều rộng lớn hơn.
Hậu đường có mặt bằng tương tự như Trung đường, song có 4 mái.
Tại tòa Trung đường, gian giữa đặt tượng thờ Nhà giáo Chu Văn An.
Tại tòa Hậu đường, gian giữa đặt tượng thờ Khổng Tử. Hai bên là ban thờ Tứ Phối (4 học trò nổi tiếng của Khổng Tử: Nhan Hồi, Tăng Sâm, Tử Tư và Mạnh Tử).
Nội tự Văn miếu được trang trí bởi hệ thống đại tự, câu đối, cửa võng và hệ thống kèo cột sơn son thếp vàng. Hiện vật quý giá xưa còn lại của Văn Miếu Xích Đằng là 9 tấm bia đá, trong đó 8 bia được lập năm 1888, một bia được lập năm 1943, ghi danh 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam Thượng xưa, trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình.


Phối cảnh tổng thể Nội tự hay Chính điện Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên


Tòa Tiền đường Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên


Ban thờ Chu Văn An tại Trung đường, Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên

 
Bàn thờ Khổng Tử cùng các học trò tại Hậu đường, Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên


Nơi đặt 9 tấm bia cổ ghi danh các vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam Thượng, Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến


Phương Trượng tháp còn lại trong khuôn viên Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến


Tĩnh Mãn tháp còn lại trong khuôn viên Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến
 

Văn miếu Xích Đằng là một trong những di tích thể hiện tầm quan trọng về vị thế chính thể và văn hóa của Khu phố cổ Phố Hiến.  

Đền Mây
Đền Mây nằm cạnh bến đò Mây (bến Lảnh) bên sông Hồng, thuộc phủ Đằng Châu xưa, vì vậy còn gọi là đền Đằng Châu. Năm 1005, nhà Tiền Lê (tồn tại 980- 1009) đổi Đằng Châu thành phủ Thái Bình. Ngày nay, đền nằm tại khu phố Đằng Châu, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên.
Đền thờ tướng quân Phạm Bạch Hổ (tên xưng Phạm Phòng Át, 910-972), là một vị tướng tài ba của nước Việt trong thời kỳ đầu độc lập. Tương truyền, mẹ ông nằm mộng thấy Hổ trắng mà có mang nên sau khi sinh đã đặt tên là Bạch Hổ.
Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, là tướng tài của Dương Đình Nghệ (874 – 937), phù giúp Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938. Khi Ngô Quyền xưng Vương (trị vì năm 939- 944), lập nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa, Phạm Bạch Hổ lui về vùng đất Đằng Châu. Khi nhà Ngô mất (965), ông trở thành một trong 12 sứ quân thời đó.
Vào năm 968, khi Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp các sứ quân, Phạm Bạch Hổ đã quy thuận. Ông được vua Đinh Tiên Hoàng (hoàng đế sáng lập nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt, trị vì năm 968- 979) phong làm Thân Vệ Đại tướng quân.
Ông đã lập được nhiều công lao trong sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Tiên Hoàng. Khi ông mất, được vua Lê Đại Hành (hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, nước Đại Cồ Việt, trị vì năm 980 – 1005) phong là Đằng vương, sắc cho dân lập đền thờ và suy tôn ông làm Thành hoàng. Đền xây dựng xong, vua Lê Đại Hành phong tặng ông là “Khai thiên hộ quốc thượng đẳng tối linh thần”.
Theo văn bia ở đền, đền Mây được xây dựng vào thời nhà Ðinh, tu sửa vào thời Hậu Lê. Ðến thời nhà Nguyễn, năm 1884, năm 1898, đền được xây dựng lại có diện mạo như ngày nay.
Đền với cây đa gần 1 ngàn năm tuổi đã đi vào ca dao: ”Trăm cảnh ngàn cảnh không bằng bến Lảnh Đền Mây”.

Ngôi đền mang đậm phong cách thời Hậu Lê đan xen phong cách kiến trúc thời Nguyễn.
Đến bố cục theo hướng Nam, gồm: Nghi môn, Chính điện và các công trình phụ khác.  

Nghi môn
Nghi môn đền Mây là một tòa nhà 3 gian, mái 2 tầng, 8 mái.
Sau Tam quan là sân đền phía trước Chính điện. 

Nghi môn đền Mây, Phố Hiến, Hưng yên

Chính điện
Chính điện đền Mây gồm 3 tòa bố trí song song nhau: Tiền đường, Trung đường và Hậu đường.
Tiền đường 3 gian rộng, tường hồi bít đốc, 2 mái; kết cấu kiểu chồng rường, giá chiêng; chân cột được kê lên đá tảng vuông. Tại kết cấu mái, các con rường được chạm hình hoa xoắn và kê lên đấu vuông thót đáy; đầu dư chạm thành đầu rồng mềm mại, uyển chuyển; các bức cốn chạm chủ đề Tứ linh, Tứ quý.
Cửa phía trước của Tiền đường là cửa bức bàn, thượng song hạ bản.
Chính giữa toà Tiền đường treo bức đại tự khảm trai có ghi hàng chữ “Thái Bình vương Phủ”. Dân gian coi Đằng Vương Phạm Bạch Hổ là vị thần thống trị phủ Thái Bình (Đằng Châu) xưa.
Hai bên tòa Tiền đường có tòa Tả vu và Hữu vu.
Trung đường 5 gian, nằm song song với tòa Tiền đường, song nền nhà cao hơn, kết cấu kiểu giá chiêng với hệ thống cột gỗ lim kê trên chân đá tảng lớn hình quả bồng. Trung đường là nơi thờ 4 vị quan văn võ hậu cận của Đằng Vương Phạm Bạch Hổ. Hai bên ban thờ có các câu đối ca ngợi công tích của Đằng Vương.
Hậu cung đền Mây gồm 3 gian, kết cấu chồng rường đơn giản, không chạm trổ hoa văn. Bên trong đặt tượng thờ Đằng vương Phạm Bạch Hổ, thân mẫu, phu nhân và con trai ông.  


Chính điện đền Mây, Phố Hiến, Hưng Yên


Ban thờ bên trong Chính điện đền Mây, Phô Hiến Hưng Yên


Hậu cung đền Mây thờ 3 pho tượng: Phạm Bạch Hổ (bên phải), Phu nhân (bên trái) và Thánh mẫu (ở giữa)

Trong đền còn lưu giữ 27 pho tượng cổ, hầu hết được tạo tác từ thời Hậu Lê; 6 bia đá thời Hậu Lê và thời Nguyễn; 10 bức đại tự; 2 cỗ kiệu bát cống; 1 lư đồng, 18 đạo sắc phong qua các triều đại phong kiến...
Hàng năm, đền Mây thường tổ chức lễ hội vào ba dịp: Ngày mồng 8 đến 16 tháng Giêng kỷ niệm ngày sinh; ngày 12 đến 18 tháng 11 âm lịch kỷ niệm ngày mất của Tướng quân; ngoài ra, nhân dân còn kỷ niệm ngày mất của thân mẫu Phạm Bạch Hổ từ ngày 16 đến 24 tháng 6 âm lịch.  
Ðền Mây cũng như chùa Chuông ở phố Hiến là hai di tích nổi tiếng vì còn lưu giữ được phong cách kiến trúc thuần Việt. 

Đền Kim Đằng
Đền Kim Đằng tọa lạc tại khu phố Kim Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên.
Đền thờ tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương, cùng phối thờ còn có tướng quân họ Phan, họ Phạm và Họ Nguyễn.
Đinh Điền quê ở làng Đại Hữu, nay là xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Ông cùng làng với Đinh Bộ Lĩnh (vua Đinh Tiên Hoàng, sáng lập nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt, trị vì 968 -979) và theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước.
Vào năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị sát hại, triều đình suy tôn Vệ Vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên kế ngôi. Nhân lúc Đại Cồ Việt rối ren, nhà Tống Trung Quốc (960 -1279) cho quân sang xâm lược. Trước họa ngoại xâm, quân sĩ tôn Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua. Không chấp nhận việc đó, quan Ngoại Giáp Đinh Điền và Định Quốc Công Nguyễn Bặc đem hai đạo quân thủy bộ từ Ái Châu (Thanh Hóa) tiến về kinh thành Hoa Lư đánh Lê Hoàn phục hưng cho nhà Đinh. Cuộc chiến thất bại, Đinh Điền tử trận, đạo quân tan rã.
Đền Kim Đằng được người dân trong vùng khởi dựng từ khá sớm, ngay sau khi Đinh Điền cùng phu nhân Phan Thị Môi Nương mất. Công trình được xây dựng trên nền của đại bản doanh của tướng quân khi xưa.
Trải qua nhiều lần trùng tu, hiện nay đền Kim Đằng gồm các hạng mục công trình: Nghi môn, Chính điện và các công trình phụ khác.  

Nghi môn
Phía trước Nghi môn hay Tam quan là hồ rộng lớn.
Nghi môn gồm 4 trụ biểu, đỉnh trụ trang trí tứ phượng; thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối, đế trụ thắt dạng cổ bồng. Phía ngoài, mỗi bên, giữa hai trụ biểu có một cổng phụ, phía trên có mái 2 tầng, 8 mái.  


Nghi môn đền Kim Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên

Chính điện
Chính điện đền Kim Đằng có kiến trúc kiểu ”chữ đinh” hay chữ T, gồm Tiền đường và Hậu cung.
Tiền đường 5 gian, kiểu chồng diêm 2 tầng, đầu hồi bít đốc, 4 mái. Kết cấu các bộ vì kèo kiểu quá giang đơn giản, được nâng đỡ bằng hệ thống cột gỗ lim.
Hậu cung 3 gian. Kết cấu các bộ vì kèo kiểu con chồng, đấu sen. Trên các con rường chạm nổi hình hoa lá cách điệu. Gian giữa đặt tượng tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương, trong tư thế ngồi tọa thiền.
3 gia tướng của Đinh Diền cũng được phối thờ tại đây.
Đền Kim Đằng hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như hoành phi, câu đối, đặc biệt là 11 đạo sắc phong thời Hậu Lê và thời Nguyễn.


Chính điện đền Kim Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên


Hậu cung và tượng thờ
tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương

Hàng năm, lễ hội đền Kim Đằng tổ chức từ ngày 15 đến 17 tháng 11 âm lịch để tưởng nhớ tới ngày mất của tướng quân Đinh Điền và phu nhân. 

Đình An Vũ
Đình An Vũ nằm tại khu phố An Vũ, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên.
Đình được xây dựng trên thế đất hình chim Phượng Hoàng với khuôn viên rộng 3135m2, là vọng gác tiền tiêu của Phố Hiến xưa.
Đình thờ Cao Sơn Đại vương có tên là Nguyễn Hiền, người xã Thanh Uyên, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Ông là danh tướng thời vua Hùng Duệ vương (vua Hùng thứ 18, trị vì  ? – 258 TCN), đã cùng Tản Viên Sơn thánh kết nghĩa anh em. Hai ông cùng phò giúp vua Hùng đánh thắng quân Thục xâm lược. Sau khi mất, ông được dân làng An Vũ tôn làm thành hoàng của làng và thờ phụng trong đình làng.
Đình An Vũ xây dựng vào năm 1741, thời Hậu Lê, được trùng tu, tôn tạo vào năm 1929, thời Nguyễn.
Đình có bố cục hướng Tây, gồm: Nghi môn, Sân đình và Đại đình.

Nghi môn
Nghi môn đình gồm 4 trụ biểu. Hai trụ biểu giữa cao, hai trụ biểu hai bên thấp. Đỉnh trụ trang trí tứ phượng; thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối, đế trụ thắt dạng cổ bồng.
Sau Nghi môn là sân đình rộng gắn với ao và giếng đình.  


Nghi môn đình An Vũ, Phố Hiến, Hưng Yên

Đại đình
Đại đình có mặt bằng kiến trúc kiểu ”chữ đinh” hay chữ T, gồm Đình và Hậu cung.
Đình 5 gian, 2 dĩ, kiến trúc đỡ mái theo kiểu giá chiêng chồng rường; bốn đầu dư đỡ câu đầu chạm lộng hình đầu rồng mang đậm dấu ấn kiến trúc, mỹ thuật thời Hậu Lê. Các cấu kiện như kẻ, bẩy, con rường đều chạm bong kênh hoa văn hình lá lật, hoa dây mềm mại.
Không gian bên trong đình tương tự như các ngôi đình truyền thống vùng Đồng bằng Bắc Bộ: Hai gian hai bên có sàn gỗ, cách nền khoảng 0,5m. Đình là nơi người dân trong làng hội họp khi có việc làng.
Hậu cung 3 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái. Bên trong đặt ban thờ Cao Sơn Đại vương. 


Mặt trước tòa Đài đình, đình An Vũ, Phố Hiến, Hưng Yên

Đình An Vũ có các mảng chạm khắc trang trí thời Lê đan xen thời Nguyễn. Trong đình còn lưu giữ nhiều hiện vật, đồ thờ có giá trị như: Tượng Cao Sơn Đại vương, đỉnh đồng, chuông đồng và đặc biệt là 5 đạo sắc phong thời Nguyễn.
Hằng năm, vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, người dân tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công lao của Thành hoàng.  

Đền Nam Hòa
Đền Nam Hoà được xây dựng tại làng Nam Hòa xưa, nay là đường Bãi Sậy, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên. Vào thế kỷ 17, làng Nam Hòa xưa là nơi tụ cư của cả người Nhật.
Đền Nam Hoà thờ ba vị Thiên thần, gồm Đức Thiên Quan, Đức Thổ Địa Long thần và Đức Thuỷ Phủ. Đây là những vị thần đại diện cho sức mạnh của Tam giới là Thiên, Địa, Thủy.
Đền Nam Hoà được khởi dựng từ rất sớm. Đến thời Nguyễn, đầu thế kỷ 19, ngôi đền được trùng tu với quy mô lớn, gồm bốn toà kiên cố. Trải qua thời gian và những biến động của lịch sử, xã hội, ngôi đền đã bị phá hủy.
Sau đó, đền Nam Hòa được người dân phục dựng lại trên nền toà Hậu cung xưa.
Đền ngày nay nằm trên diện tích rộng 720m2, gồm một tòa 3 gian, 4 mái.


Mặt trước đền Nam Hòa, Phố Hiến, Hưng Yên

Lễ hội đền Nam Hoà thường được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 3 cùng dịp với lễ hội đền Mẫu, đền Trần và lễ hội đình, chùa Hiến...  

Đền Trần
Đền Trần nằm bên cạnh hồ Bán Nguyệt, thuộc phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên.
Hồ Bán Nguyệt được cho là một nhánh sông Xích Đằng xưa, dẫn sâu vào đất liền.
Đền tôn thờ Anh hùng dân tộc Việt Nam Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1228- 1300). Tại khu vực Đồng bằng Bắc Bộ có rất nhiều đền thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo.
Phố Hiến xưa là nơi hội tụ của sông Đáysông Hồngsông Thái Bình, lại gần cửa biển nên trở thành vị trí chiến lược trọng yếu, thuận lợi cho cả giao thông thủy bộ. Vì vậy, Trần Hưng Đạo đã chọn nơi đây làm địa điểm đóng quân trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông.
Theo truyền thuyết, đền Trần tại Phố Hiến, được khởi dựng vào nửa đầu thế kỷ 14 sau khi Hưng Đạo Đại vương mất.
Năm 1863, 1892, thời Nguyễn, đền được trùng tu, tôn tạo và còn để lại đến ngày nay.
Đền có bố cục quay về hướng Tây, ra phía hồ Bán Nguyệt, gồm: Nghi môn, Chính điện và các công trình phụ trợ khác:  

Nghi môn
Nghi môn của đền Trần được xây dựng theo kiểu chồng diêm, gồm 3 khối cổng.
Khối cổng giữa rộng, lớn, 2 tầng mái, 8 mái, cửa xây vòm cuốn, phía trên có chữ đề: “Trần Đại Vương từ”.
Hai khối cổng hai bên nhỏ, thấp, 2 tầng mái, 8 mái, cửa xây vòm cuốn. Hai bên cổng phụ có trụ biểu, đỉnh trụ trang trí con nghê chầu, thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối, đế trụ thắt dạng cổ bồng. 
Phía tay phải ngoài sân là đền thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. 


Nghi môn đền Trần, Phố Hiến, Hưng Yên

Chính điện
Chính điện đền Trần gồm 4 tòa đặt song song liền nhau: Tiền đường, Nhị đường, Tam đường và Hậu đường.
Tiền đường, Nhị đường, Tam đường 5 gian, đầu hồi bít đốc 2 mái.
Hậu đường 3 gian. Gian trung tâm Hậu đường đặt ban thờ Đức Thánh Trần. Phía sau là ngai, bài vị Tổ nghiệp họ Trần cùng gia đình và hai gia tướng tài danh là Yết Kiêu, Dã Tượng.
Hiện nay, đền Trần còn bảo lưu được nhiều hiện vật có giá trị về lịch sử - văn hóa và mỹ thuật. Đó là hệ thống cửa võng, câu đối, ngai thờ, bia đá… và đặc biệt là 8 đạo sắc phong thời Nguyễn.  


Tòa Tiền đường đền Trần, Phố Hiến, Hưng Yên


Ban thờ bên trong đền Trần, Phố Hiến, Hưng Yên

Vào ngày 8/3 và 20/8 âm lịch, tại đền Trần, người dân tổ chức lễ hội kỷ niệm ngày chiến thắng Bạch Đằng lịch sử và ngày hóa của Đức Thánh Trần.  

Đền Mẫu
Đền Mẫu có tên chữ là Hoa Dương Linh từ, nằm cạnh hồ Bán Nguyệt, tại đường Bãi Sậy, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên.
Đền thờ Tứ vị thánh nương, có nguồn gốc từ vương triều nhà Nam Tống, Trung Quốc.
Theo sử sách, Năm 1279, sau thất bại trong trận hải chiến Nhai Sơn, giữa nhà Nguyên (tồn tại 1271- 1368) và  nhà Tống (tồn tại 960 -1279), vua Tống Đế Bính (Triệu Bính, năm 1271- 1279, vị hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của vương triều Nam Tống, trị vì 5/1278- 3/1279), khi đó mới 9 tuổi, cùng hoàng tộc và quân thần bỏ chạy ra biển. Do quân Nguyên truy sát và biết không thể thoát, vua Tống, hoàng tộc cùng quần thần đã nhảy xuống biển tuẫn tiết. Bảy ngày sau, có đến hàng ngàn xác chết nổi lên mặt biển. Xác vua Tống Đế Bính cũng ở trong số đó.
Có 4 xác trôi về làng chài Cờn Môn (nay thuộc phường Quỳnh Phươngthị xã Hoàng Mai, Nghệ An). Người dân theo hình dáng và trang phục biết là người tôn quý nên đắp mộ và dựng ngôi miếu nhỏ để thờ. Sau này, mới biết đó là Thái hậu Dương Nguyệt Quả, là mẹ của vua Tống Đoan Tông (vị hoàng đế thứ 8 nhà Nam Tống, trị vì 1276- 1278, anh trai của vua Tống Đế Bính), hai công chúa là Triệu Nguyệt Khiêu, Triệu Nguyệt Hương và bà nhũ mẫu. Từ đó, ngôi miếu được xây dựng khang trang hơn, trở thành đền Cờn và còn thờ thêm cả vua Tống Đế Bính cùng các quan đại thần của ngài. Các bà thường hiển linh về giúp nhân dân trong vùng.
Năm 1294, vua Trần Anh Tông (hoàng đế thứ 4 triều Trần, trị vì năm 1293- 1314) thân chinh đi đánh giặc Chiêm Thành, qua đây thấy khung cảnh yên tĩnh đã cho quân dừng lại. Đêm hôm đó, Tứ vị thánh nương đã ứng mộng phù trợ, giúp nhà vua Trần Anh Tông đánh thắng giặc Chiêm Thành; sau đó được vua phong làm Đại kiền quốc gia Nam Hải Tứ vị thánh nương.
Các vị vua sau này như vua Lê Thánh Tông, vua Quang Trung khi đi đánh trận đều qua đền Cờn lập đàn tế lễ, cầu xin Tứ vị thánh nương phù hộ cho thắng trận. 

Vào thế kỷ 15, Đạo Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ gắn với Thánh Mẫu Liễu Hạnh ra đời. Đạo Mẫu là một trong những tín ngưỡng Thần Đạo Việt Nam đã dung hòa nhiều yếu tố của Phật giáo, Đạo giáo (tôn giáo ngoại nhập) và tín ngưỡng của các vùng miền, nên Hệ thống thần linh trong Đạo Mẫu rất đông đảo, song được phân thành các cấp bậc thờ tự: Hàng Phật, Thánh; Tam tòa Thánh Mẫu; Hàng Quan; Hàng Chầu bà; Hàng ông Hoàng; Hàng Cô, Hàng Cậu....Các thần linh Tứ phủ có nguồn gốc không chỉ là người Kinh mà còn thuộc các dân tộc ít người như Tày, Nùng, Dao, Champa, Khmer, Hoa…

Đền Cờn sau này trở thành đền Mẫu. Hàng Chầu bà được thờ tại đây là Đại kiền quốc gia Nam Hải Tứ vị thánh nương. Vua Tống Đế Bính được thờ vào hàng ông Hoàng, là ông Hoàng chín (còn gọi là ông Hoàng chín Cờn) cai quản vùng biển. Đền Cờn là một trong 4 ngôi đền thiêng ở tỉnh Nghệ An: “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”. 

Đền Mẫu tại Hưng Yên được xây dựng vào năm cuối thế kỷ 13 bởi quan Thái giám họ Du, vương triều nhà Nam Tống. Khi nhà Nguyên diệt nhà Tống, ông tị nạn sang Phố Hiến, Đại Việt. Quan Thái giám họ Du là bậc hiền tài, giàu lòng nhân nghĩa; có công lập nên làng Hoa Dương; truyền dạy dân nghề thủ công, trồng dâu nuôi tằm, đánh cá. Ông góp phần thu hút người Hoa đến Phố Hiến buôn bán, lập nghiệp. Khi ông mất, người dân tôn là Thành hoàng làng Hoa Dương. Lăng mộ của ông hiện nằm phía sau đình Hiến hay đình Hoa Dương, tại đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thành phố Hưng Yên.
Truyền thuyết cho rằng, một hôm Thái giám họ Du được Thái hậu Dương Nguyệt Quả báo mộng về đền Cờn, Nghệ An. Ông tìm đường đến thăm và sau đó trở về Phố Hiến lập đền thờ Tứ vị thánh nương để người dân gốc Nam Tống có nơi tưởng nhớ về quê hương. Khi đền dựng xong, người Hoa, người Việt đến thắp hương, cầu đảo mọi việc, đặc biệt là chuyện giao thương trên sông, biển, đều rất linh ứng. 

Đền Mẫu tại Hưng Yên qua các triều đại đều được trùng tu, tôn tạo.
Đền Mẫu ngày nay tọa lạc trên một khu đất rộng 3000m2, bố cục theo hướng Nam. Phía Tây là hồ Bán Nguyệt, xa hơn một chút là đê sông Hồng.
Kiến trúc của đền ngày nay mang phong cách thời Nguyễn qua lần trùng tu vào năm 1896, theo kiểu đền thờ Mẫu Tam Phủ, bao gồm các hạng mục: Nghi môn, Tiền tế, Trung đường, Hậu cung và các công trình phụ trợ thường có trong hệ thống đền Mẫu: 

Nghi môn
Nghi môn của đền Mẫu được xây dựng theo kiến trúc kiểu chồng diêm, gồm 3 khối cổng.
Khối cổng giữa rộng, lớn, 2 tầng mái, 8 mái, cửa xây vòm cuốn, trên có bức đại tự: “Dương Thiên Hậu – Tống Triều” và bức đại tự được ghép bằng các mảnh gốm lam, nét điển hình của kiến trúc thời Nguyễn: “Thiên Hạ mẫu nghi”. Phía trước cổng chính có hai trụ biểu; đỉnh trụ trang trí tứ phượng, thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối, đế trụ thắt dạng cổ bồng. Hai khối cổng hai bên nhỏ, thấp, 2 tầng mái, 8 mái, cửa xây vòm cuốn, trên cũng các bức đại tự. Hai bên cổng phụ có trụ biểu, đỉnh trụ trang trí con nghê chầu, thân và đế trụ như trụ biểu phía trước khối cổng chính.
Giữa của khối cổng chính và cổng phụ có vòm miếu nhỏ với mái che 4 mái, bên trong đặt bát hương thờ. 
Sau Nghi môn là sân đền. Trong sân có ba cây đa, sanh, si cổ thụ, khoảng 800 năm tuổi, được cho là một trong những cây đa cổ nhất vùng Hạ châu thổ Bắc Bộ.  


Nghi môn đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên

Tiền tế
Qua sân đền là tòa Tiền tế. Công trình như một tòa Phương đình rộng 3 gian, kiến trúc kiểu chồng diêm, 2 tầng 8 mái; 4 phía không có tường bao.
Hai bên Tiền tế là điện Lưu Ly và cung Quảng Hàn. 


Phối cảnh tòa Tiền tế, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên


Bên trong tòa Tiền tế, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên


Cung Quảng Hàn bên phải tòa Tiền tế, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên


Điện Lưu Ly bên phải tòa Tiền tế, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên

Trung đường và Hậu cung
Trung đường gồm 3 gian.
Hậu cung 5 gian, là nơi đặt tượng thờ Thánh mẫu Thái hậu Dương Nguyệt Quả và người hầu.

Các công trình trong đền thờ đều được làm bằng gỗ lim, kết cấu các bộ vì kiểu chồng giường giá chiêng, chạm khắc hoa văn tinh xảo với nhiều đề tài như: Tứ linh, Tứ quý, hoa dây, hổ phù, chữ thọ.... 


Mặt trước tòa Trung đường, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên




Nội thất tòa Trung đường, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên


Ban thờ bên trong tòa Trung đường, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên


Trang trí ban thờ tại Hậu cung, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên


Khám thờ đặt tượng Thánh mẫu Dương Nguyệt Quả tại Hậu cung đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên

Đền Mẫu còn bảo lưu được nhiều di vật có giá trị như: bộ long sàng, long kỷ, cỗ kiệu bát cống, thất cống thời Hậu Lê; đôi lọ lục bình men rạn thời Nguyễn; 15 đạo sắc phong từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn...
Hàng năm, lễ hội đền Mẫu diễn ra từ ngày 10 đến 15 tháng 3 âm lịch, nhằm tưởng nhớ ngày mất của Thánh mẫu Thái hậu Dương Nguyệt Quả.
Đền Mẫu, Phố Hiến là một minh chứng cho sức mạnh của Thần đạo Việt Nam, tiêu biểu là đạo Mẫu, trong việc thu hút và kết nối các đức tin của nhiều cộng đồng dân tộc khác nhau trên đất Việt.   

Đền Thiên Hậu
Đền Thiên Hậu có tên chữ là Thiên Hậu cung, tọa lạc trên phố Bắc Hòa, trung tâm của Phố Hiến xưa, nay là đường Trưng Trắc, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên.
Đền thờ bà Lâm Tức Mặc, người làng Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Bà có lòng nhân đức cứu giúp dân lành, được tôn vinh là thần Biển. Người dân nhiều nơi lập đền, mở phủ để tôn thờ. Người Phúc Kiến khi định cư ở đâu, thì ở đó lập đền thờ Bà.
Đền Thiên Hậu được khởi dựng vào cuối thế kỷ 16 nửa đầu thế kỷ 17, do những người gốc Hoa tại Phố Hiến xây dựng. Theo truyền thuyết, những người Hoa tại Phố Hiến tổ chức quyên góp vật liệu từ những người thân ở Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và vận chuyển bằng đường biển, sông đến đây để dựng đền.
Tại Phố Hiến còn có một nơi nữa thờ Bà Lâm Tức Mặc là đền Thiên Hậu, cạnh Đông Đô Quảng hội, nằm trên đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thành phố Hưng Yên.
Theo thời gian, việc thờ Bà, một vị thần theo tín ngưỡng người Hoa đã chuyển hóa thành thờ Mẫu Tam phủ của Thần đạo Việt Nam, được cả người Hoa và người Việt tôn sùng.  

Đền được trùng tu nhiều lần vào thế kỷ 19, 20.
Đền Thiên Hậu ngày nay nằm trên một khu đất rộng 1250m2, mặt tiền quay về hướng Nam, là sự kết hợp giữa kiến trúc Hoa Nam và kiến trúc đền vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Đền gồm các hạng mục công trình: Nghi môn ngoại, Nghi môn nội, Tả vu, Hữu vu, Tiền đường và Hậu đường.  


Phối cảnh tổng thể đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Nghi môn ngoại
Nghi môn ngoại gồm ba cổng xây gạch.
Cổng chính giữa có quy mô lớn với 4 mái xây trên hai trụ gạch. được lợp bằng ngói âm đương; bờ nóc đắp cao, chạy dài ra hai đầu rồi uốn cong vút lên; trên bờ nóc đắp trang trí hình hoa lá mang đặc điểm của nghệ thuật kiến trúc Trung Hoa.
Hai Cổng phụ nhỏ hơn nằm cách xa Cổng chính và nối liền với Cổng chính bằng hệ thống tường rào gạch hoa bằng sứ men ngọc với nhiều dạng hoa văn như chữ thọ, chữ vạn, hoa cúc. 


Nghi môn ngoại, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Nghi môn nội
Nghi môn nội là một tòa nhà 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái, lợp ngói ống. Nghi môn nội có 3 cửa theo kiểu bức bàn, mỗi cửa hai cánh. Trên cánh cửa có khắc hình quan văn võ và người theo hầu, được tô sơn với màu sắc rực rỡ. Đây là một trong những tác phẩm điêu khắc gỗ lớn nhất mang nét văn hóa của người Hoa tại Phố Hiến.
Phía trên cửa chính giữa là bức đại tự "Thiên Hậu Cung".
Phía trước Nghi môn nội có đôi nghê chầu bằng đá hoa cương, con đực ngậm ngọc, con cái ôm con bú, rất sinh động. Qua Nghi nội là đến sân đền.  


Nghi môn nội, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Sơ đồ mặt cắt ngang Nghi môn nội, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Tiền đường
Hai bên sân đền là hai tòa Tả vu và Hữu vu. Dãy Tả vu là nơi thờ Tứ phủ Chầu bà; Dãy Hữu vu là nơi thờ Tam tòa Thánh mẫu (theo Đạo Mẫu Tam phủ).
Tòa Tiền đường nằm chính giữa trục sân đền, theo kiểu chồng diêm, mái 2 tầng, 8 mái, ngói ống, không có tường bao xung quanh như tòa Phương đình. Đường bờ nóc trang trí tượng đức Phật ngồi trên toà sen, xung quanh đông người qua lại. Toàn bộ hệ thống vì được trang trí bởi các bức phù điêu theo các tích truyện Trung Quốc như: Tam Quốc, Tây Du Ký… Ngoài ra, ở đây còn được trang trí với các đề tài cỏ cây, hoa lá, muông thú...


Sơ đồ mặt trước tòa Tiền đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên


Phối cảnh tòa Tiền đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên


Trang trí kết cấu mái tòa Tiền đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên




Mặt cắt tòa Tả vu, Hữu vu, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Hậu đường
Tòa Hậu đường nằm song song với tòa Bái đường, gồm 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái, ngói ống.
Bên trong tòa Hậu đường, ngoài khám thờ Thánh Mẫu Lâm Tức Mặc, còn có các khám nhỏ thờ gia đình của Bà và các dòng họ người Hoa đã có công dựng đền.
Thông thường trong các ngôi đền Việt Nam, đầu dư thường chạm rồng, thì tại đây, đầu dư được chạm thêm cả  hình cá chép hóa rồng, người....

Sơ đồ mặt cắt ngang tòa Tiền đường và Hậu đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên


Trang trí mặt trước tòa Hậu đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên


Ban thờ bên trong tòa Hậu đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên


Trang trí đầu dư tại kết cấu mái tòa Hậu đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên


Kết cấu và các bức chạm khắc trên mái, tòa Hậu đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên



Khám thờ Thánh Mẫu Lâm Tức Mặc trong Hậu cung đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Trong đền Thiên Hậu, ngoài hệ thống tượng thờ, tại đây còn lưu giữ các đồ tế tự có nguồn gốc Trung Hoa như bộ ngũ sự, bát hương, độc bình, bát bảo, đèn lồng ...

Hàng năm, đền Thiên Hậu mở hội vào ngày 23/3 và ngày 9/9 âm lịch để kỷ niệm ngày sinh và ngày hoá của Thánh Mẫu Lâm Tức Mặc.  

Đền Bà Chúa Kho
Đền Bà Chúa Kho có tên chữ là Thương Tỉnh linh từ hay đền Gốc Sanh.
Đền tọa lạc trên một thế đất cao ráo, thuộc phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên.
Đền thờ bà Lê Bạch Nương còn gọi là bà Chúa Kho.
Tại vùng Đồng bằng Bắc Bộ có nhiều sự tích về các bà Chúa Kho, có vị là nhân vật lịch sử, có vị nửa lịch sử nửa huyền thoại và có vị gần như huyền thoại.
Theo thần tích, bà Chúa Kho tại Phố Hiến, hay bà Chúa Kho tại Vĩnh Ty đồn (tên gọi trước kia của Phố Hiến).
tên là Lê Bạch Nương, thuộc dòng dõi hoàng tộc nhà Hậu Lê, giỏi văn chương, tinh thông võ nghệ. Bà được triều đình sai phụ trách kho ngân khố Quốc gia quan trọng đặt tại Phố Hiến. Bấy giờ có nạn giặc dữ, bà Bạch Nương đã cùng quân sĩ chiến đấu bảo vệ ngân khố quốc gia và đã hy sinh khi tuổi đời chưa đến ba mươi.
Sau khi Bà mất, dân địa phương đã lập đền thờ. Nhà vua ban sắc và tặng phong mỹ tự cho ngôi đền là “Thiên phủ chư tích” (Nơi tích trữ ngân khố).

Đền Bà Chúa Kho được xây dựng vào thời vua Lê Hy Tông (hoàng đế thứ 21 nhà Hậu Lê, trị vì năm 1675- 1705 và có quy mô rộng lớn.
Cuối thế kỷ 19, ngôi đền được di chuyển ra vị trí hiện nay với quy mô nhỏ hơn.
Đền Bà Chúa Kho gồm Nghi môn, Tiền đường và Hậu cung.  

Nghi môn
Nghi môn là một cổng nhỏ, phía trên có mái che dạng 4 mái. Hai bên cổng có hai cây đa, cây sanh cổ thụ.  


Nghi môn đền Bà Chúa Kho, Phố Hiến, Hưng Yên

Tiền đường và Hậu cung
Tòa Tiền đường 3 gian và Hậu cung 3 gian, đặt song song với nhau.
Trong Hậu cung có khám thờ đặt tượng Chúa Mẫu Liễu Hạnh. Phía dưới là khám thờ Bà Chúa kho.
Bên trong đền trang trí nhiều mảng chạm khác các đề tài dân gian quen thuộc như Tứ linh, Tứ quý, hoa lá...
Đền Bà Chúa Kho còn bảo lưu được nhiều hiện vật, đồ thờ có giá trị như 2 đạo sắc phong thời Nguyễn, trâm bạc, lục bình sứ,… đặc biệt là bộ tượng đồng được tạo tác vào thế kỷ 17.


Tòa Tiền đường, đền Bà Chúa Kho, Phố Hiến, Hưng Yên




Ban thờ Bà Chúa Kho, tại Hậu cung đền Bà Chúa Kho, Phố Hiến, Hưng Yên


Hàng năm, vào ngày mồng 01 tháng 3 âm lịch, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội đền Bà Chúa Kho. 

Võ Miếu
Võ Miếu được xây dựng tại phố Bắc Hòa xưa, nay thuộc đường Trưng Trắc, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên. Đây là một trong những di tích tiêu biểu của người Hoa hiện còn lưu giữ được tại Phố Hiến.
Võ Miếu thờ Quan Thánh Đế Quân, dân gian gọi là Quan Công hay Quan Vũ.
Quan Vũ tự là Vân Trường, là một vị tướng văn võ song toàn thời Tam Quốc, Trung Quốc (năm 220- 180). Quan Vũ cao lớn, mặt đỏ như gấc, oai phong lẫm liệt, là người vũ dũng, hào hiệp, hay bảo vệ kẻ yếu.
Quan Vũ cùng với Lưu Bị, Trương Phi kết nghĩa huynh đệ và có công lớn trong việc thành lập nhà Thục Hán (tồn tại 221 – 263). Đối với người Hoa, ông là hiện thân của trung nghĩa và là thánh nhân phù hộ cho hơn 20 nghề truyền thống, nên được người dân thờ phụng ở nhiều nơi.

Võ Miếu là một trong số di tích của người Hoa tại Phố Hiến.
Công trình được xây dựng vào thế kỷ 16-17, được tôn tạo vào 1898, thời Nguyễn, mang đậm kiến trúc Phúc Kiến Trung Quốc đan xen kiến trúc Việt.
Đền gồm Nghi môn, Chính điện và các công trình phụ trợ: 

Nghi môn
Nghi môn Võ Miếu là một tòa nhà 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Tường xây gạch không trát vữa. 


Nghi môn Võ Miếu, Phố Hiến, Hưng Yên

Chính điện
Chính điện Võ miếu có bố cục hình ”chữ công” hay chữ H, gồm Tiền tế, Thiêu Hương và Hậu điện.
Tiền tế 3 gian, Thiêu hương 1 gian, Hậu điện 3 gian với kết cấu mái theo kiểu vì giá chiêng. Trên các cấu kiện kiến trúc được chạm khắc nhiều đề tài theo kiểu kiến trúc nghệ thuật Trung Hoa đan xen với đề tài dân gian Việt.
Hiện nay, Võ Miếu còn lưu giữ nhiều đồ thờ tự có giá trị về mặt lịch sử văn hóa, nghệ thuật như: Tượng Quan Vũ, bộ tam sự, sập chân quỳ dạ cá, bát tô thời Minh, bát hương thời Lê, hương án đá,…


Bên trong tòa Tiền tế, Võ Miếu, Phố Hiến, Hưng Yên


Bên trong Hậu điện, Võ Miếu, Phố Hiến, Hưng Yên


Ban thờ Quan Thánh Đế Quân, Võ Miếu, Phố Hiến, Hưng Yên

Hàng năm, vào ngày 13 tháng 5 âm lịch nhân dân địa phương tổ chức lễ hội kỷ niệm ngày sinh của đức Thánh.  

Đền Cửu Thiên Huyền Nữ
Đền Cửu Thiên Huyền Nữ còn gọi là đền Bắc Hòa hay Cửu Thiên cung tọa lạc trên phố Bắc Hòa xưa, nay thuộc phường Lê Lợi, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
Đền thờ Đức Thánh Cửu Thiên Huyền Nữ Chân Quân (còn được gọi là Oa Huỳnh, Huyền Nữ). Theo truyền thuyết, Bà là nữ thần chủ về chiến tranh và sự trường thọ trong Thần đạo Trung Hoa. Tại Trung Hoa, đền thờ Bà được người dân dựng ở nhiều nơi.
Vào thế kỷ 17, một số người gốc Hoa sinh sống tại Phố Hiến đã dựng đền để thờ Bà.
Ngoài ra, đền còn phối thờ các vị Thần đạo Việt Nam như Long mạch Thổ thần, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Theo thời gian, việc thờ Bà, một vị thần theo tín ngưỡng người Hoa đã chuyển hóa thành thờ Mẫu Tam phủ của Thần đạo Việt Nam.
Đền Cửu Thiên Huyền Nữ được trùng tu, tôn tạo vào năm 1937 thời Nguyễn. Đền không có Nghi môn, chỉ gồm 2 trụ thấp, đánh dấu giới hạn của đền với vỉa hè đường. Đền gồm Chính điện  và các công trình phụ trợ thường có trong hệ thống đền Mẫu: 

Chính điện
Chính điện có mặt bằng kiểu ”chữ công” gồm tòa Tiền tế, Thiêu Hương và Hậu đường.
Tòa Tiền tế 3 gian được xây dựng theo kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, liên kết bộ vì theo kiểu kèo cầu quá giang trốn cột khá đơn giản.
Tòa Thiêu Hương 1 gian, được xây dựng theo kiểu cuốn vòm - là một trong những kiểu kiến trúc đặc thù của các di tích thuộc quần thể khu di tích Phố Hiến. Ở vị trí cao nhất là khám thờ các vị thần theo Đạo Mẫu Tam phủ, gồm: Tam tòa Thánh mẫu (Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng ngàn và Mẫu Thoải), phía dưới ban thờ Ngũ vị quan lớn...
Hậu cung 3 gian, bên trong đặt khám thờ đức Cửu Thiên Huyền Nữ.


Tòa Tiền tế, đền Cửu Thiên Huyền Nữ, Phố Hiến, Hưng Yên


Bên trong tòa Tiền tế, đền
Cửu Thiên Huyền Nữ, Phố Hiến, Hưng Yên


Ban thờ thánh Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ,
đền Cửu Thiên Huyền Nữ, Phố Hiến, Hưng Yên

Hằng năm, đền Cửu Thiên Huyền Nữ diễn ra lễ hội vào các ngày mồng 03 tháng 3, ngày 20 tháng 8 và ngày mồng 09 tháng 9 âm lịch để tưởng nhớ đến công lao của các vị thần được tôn thờ.  

Đông Đô Quảng hội – Thiên Hậu cung
Đông Đô Quảng hội và Thiên Hậu cung nằm tại trung tâm Phố Hiến Hạ xưa, nay thuộc đường Phố Hiến, phường Hồng Châu.  
Đông Đô Quảng hội là nơi hội họp (tương tự như ngôi đình) của các thương nhân nước ngoài, chủ yếu là người Hoa, đồng thời đó cũng là nơi thờ Tam thánh: Thần Thái Y (Thần làm nghề thuốc); Thần Hoa Quang (Thần dạy dân làm các nghề thủ công); Thần Nông (Thần dạy dân làm ruộng, trồng trọt, chăn nuôi).
Thiên Hậu cung nằm bên trái Đông Đô Quảng hội. Đây là ngôi đền thờ đức Thánh mẫu Thượng Thiên hay Đức bà Lâm Tức Mặc, một vị thần Biển của người dân Phúc Kiến. Tại Phố Hiến còn có một nơi nữa thờ Bà là đền Thiên Hậu, tọa lạc trên phố Bắc Hòa - trung tâm của Phố Hiến xưa, nay là đường Trưng Trắc, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên.

Đông Đô Quảng Hội và Thiên Hậu Cung được dựng vào năm 1590. Hai cụm công trình có cấu trúc tương tự như nhau với phong cách kiến trúc kết hợp giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Tương tự như quá trình xây dựng đền Thiên Hậu, Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu cung do những người Hoa tại Phố Hiến tổ chức quyên góp vật liệu từ những người thân ở Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và vận chuyển bằng đường biển, sông đến đây để xây dựng công trình.
Đông Đô Quảng Hội có bố cục quay về hướng Nam, gồm: Nghi môn và Chính điện.  

Nghi môn
Nghi môn là một tòa 3 gian, 2 dĩ, dài 11,5m, rộng 5,7m, cao 3,5m, đầu hồi bít đốc, 4 mái.
Kết cấu bộ vì theo kiểu giá chiêng. Cửa lớn có hai cánh được viền khung, mỗi cánh rộng 1,5m, cao 2,5m, phía trên có bức đại tự "Đông Đô Quảng Hội". 


Nghi môn Đông Đô Quảng Hội (bên trái ảnh) và Thiên Hậu Cung (bên phải ảnh), Phố Hiến, Hưng Yên


Mặt cắt ngang Nghi môn Đông Đô Quảng Hội, Phố Hiến, Hưng Yên

Chính điện
Sau Nghi môn là một sân gạch phía trước Chính điện.
Chính điện có kiến trúc kiểu “chữ công” hay chữ H, gồm tòa Tiền tế, Thiêu hương và Hậu cung.
Tòa Tiền tế hay Hội quán 3 gian. Nơi đây vốn là nơi tụ họp, gặp mặt của các chủ buôn và các dòng họ người Hoa ở Phố Hiến để bàn về các việc liên quan.
Thiêu Hương 1 gian và Hậu cung 3 gian; vì kèo theo kiểu chồng rường, giá chiêng. Trên các kết cấu gỗ chạm khắc Tứ linh, Tứ quý và các linh vật, hoa lá, thể hiện ước vọng cầu lộc, cầu tài, cầu phúc của người dân.
Phía trên cửa chính Hậu cung là đại tự được đắp nổi: "Tam Thánh Đế". Bên ngoài hiên còn có hai bia đá. Nội dung trên bia ghi lại việc trùng tu, tôn tạo Hội quán. Hậu cung là nơi thờ Tam thánh.
Liền kề với Đông Đô Quảng Hội là Thiên Hậu cung. Nhìn từ bên ngoài là hai di tích riêng biệt, vì đều có Nghi môn riêng. Song, khi vào bên trong, thì hai công trình này lại được thông nhau, tạo thành một tổng thể thống nhất.


Sân trong Đông Đô Quảng Hội - Thiên Hậu Cung, Phố Hiến, Hưng Yên

Đông Đô Quảng Hội - Thiên Hậu cung là nơi còn lưu giữ nhiều đồ tế tự quý như: bát hương, bia đá, bát men lam ngọc  đèn đồng, bộ ngũ sự bằng đồng thau… cùng hệ thống câu đối, đại tự, ngai thờ có giá trị lịch sử và mỹ thuật cao.
Ngoài ra, tại đây còn bảo tồn được 72 thánh tích và 32 sắc phong của các triều đại.
Hằng năm, lễ dâng hương, lễ tế và lễ hội được tổ chức tại Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu Cung vào các ngày 23/3 âm lịch (ngày sinh), 9/9 âm lịch (ngày hóa) của thánh Mẫu Lâm Tức Mặc và 10/10 âm lịch (ngày lễ đản của Tam tòa Thánh Mẫu. 


Vào giai đoạn thế kỷ 15- 17, Khu di tích Phố Hiến, Hưng Yên là địa điểm nổi bật trong lịch sử phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa tại vùng Hạ châu thổ Bắc Bộ. Các công trình kiến trúc còn bảo tồn tại Phố Hiến có giá trị tiêu biểu trong quá trình phát triển kiến trúc, nghệ thuật Việt Nam.
Ngày nay ta mới chỉ thấy rõ vị thế Phố Hiến về kinh tế trong quá khứ hay qua một vài công trình di tích lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng còn sót lại, mà chưa hiểu rõ rằng: Nơi đây bắt đầu và đạt tới tầm quốc tế nhờ kết nối giao thương. Song theo thời gian hàng trăm năm, Phố Hiến cũng đã trở thành địa danh về kết nối văn hóa hay "vùng đất lành" tầm quốc tế.
Khu di tích Phố Hiến không chỉ là sự bảo tồn, tôn tạo 16 (hay nhiều hơn) công trình di tích đơn lẻ. Sẽ đến một ngày, tổng thể Khu phố cổ Phố Hiến được phục dựng (có thể như Khu phố cổ Hội An) và mang lại giá trị văn hóa cốt lõi, đặc hữu cho tỉnh Hưng Yên trong thời Hội nhập mà thiên hạ vẫn gọi là thời Cách mạng công nghiệp 4.0 

Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_qu%E1%BB%91c_gia_%C4%91%
E1%BA%B7c_bi%E1%BB%87t

https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%91_Hi%E1%BA%BFn
http://phohienplus.blogspot.com/2015/05/ngoai-thuong-pho-hien-ky-17-18.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_%C4%90%C3%B4_Qu%E1%
BA%A3ng_H%E1%BB%99i

http://thanhphohungyen.gov.vn/16-di-tich-trong-khu-di-tich-quoc-gia-dac-biet-
pho-hien-c211347.html

https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_mi%E1%BA%BFu_X%C3%ADch_%
C4%90%E1%BA%B1ng

https://vtv.vn/video/kham-pha-viet-nam-van-mieu-xich-dang-320950.htm
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_B%E1%BA%A1ch_H%E1%BB%95
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_M%C3%A2y
http://hungyentv.vn/van-hoa-du-lich/den-tran-den-mau-va-nhung-gia-tri-
truyen-thong-cua-pho-hien

http://baohungyen.vn/dat-va-nguoi-xu-nhan/di-tich-le-hoi/200610/den-thien-hau-111326/
http://phohienplus.blogspot.com/2015/05/en-thien-hau.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_B%C3%A0_ch%C3%BAa_
Kho_(H%C6%B0ng_Y%C3%AAn)

- Xem thêm Chùa thuộc Khu di tích Phố Hiến, Hưng Yên tại đây

Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây

Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây

Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây


 

Cập nhật ( 20/03/2020 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
“ Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà?”
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com