
Thông tin chung:
Công trình: Văn Miếu Xích Đằng; Đền Mây; Đền Kim Đằng; Đình An Vũ; Đền Nam Hòa; Đền Trần; Đến Mẫu; Đền Thiên Hậu; Đền Bà Chúa Kho; Võ Miếu; Đền Cửu Thiên Huyền Nữ; Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu Cung thuộc Khu di tích Phố Hiến
Địa điểm: thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên
Quy mô: gồm 12 di tích trong tổng số 16 di tích chính
Năm hình thành: Thế kỷ 15- 17
Giá trị: Di tích Quốc gia đặc biệt (Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, năm 2014)
Phố Hiến
Phố Hiến tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên là một địa danh lịch sử ở Việt Nam.
Vào thế kỷ 17, đây là một thương cảng nổi tiếng của Việt Nam và được biết tới như một "Vùng đất lành" của khu vực Đông Á, tương tự như Hội An, Quảng Nam. Ngoài kinh đô Thăng Long - Kẻ Chợ phồn vinh nhất nước, Phố Hiến đã là một đô thị nổi bật đứng ở vị trí thứ hai. Dân gian có câu: "Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến".
Lịch sử hình thành và phát triển
Ngay từ thời Hùng Vương, các thày địa lý đã chia châu thổ Bắc Bộ thành 3 vùng: Thượng châu thổ với đỉnh của các triền sông là Việt Trì; Trung châu thổ với đỉnh là Cổ Loa; Hạ châu thổ với đỉnh là Phố Hiến. Trong Tứ bất tử của Việt Nam, vị Thánh thứ 3 là Chử Đồng Tử (thời Hùng Duệ Vương, vua Hùng thứ 18, thế kỷ 3 TCN), tượng trưng cho sự thịnh vượng, được cho là có liên quan đến việc hình thành tuyến giao thương buôn bán Kẻ Chợ, Thăng Long – Phố Hiến, Hưng Yên sau này. .
Tại Hạ châu thổ, các nhánh sông trải ra vùng đồng bằng như những chiếc nan quạt. Phố Hiến xưa nằm sát bên bờ tả ngạn sông Hồng (ngày nay do phù sa bồi đắp nên cách sông khoảng chừng 2 km). Theo đường sông, Phố Hiến cách Kinh Đô Thăng Long – Kẻ Chợ 55 km. Từ Thăng Long xuôi thuyền xuống Phố Hiến mất khoảng 2 ngày, ngược dòng lên mất 3 ngày.
Bằng đường thuỷ, Phố Hiến trở thành nơi trung chuyển, cửa ngõ án ngữ hoặc thông thương của mọi tuyến giao thương đường sông từ vùng biển Bắc Bộ đi sâu vào đất liền tới Kinh đô Thăng Long, qua các tuyến sông Đáy, sông Hồng, sông Thái Bình.
Thế kỷ 10, vùng Đằng Châu ở phía Bắc thành phố Hưng Yên ngày nay vốn là một lãnh địa của sứ quân Phạm Bạch Hổ (910- 972). Ông đã gây dựng nơi đây thành thủ phủ một vùng đất rộng lớn và là một trung tâm quân sự thời 12 sứ quân. Đến thời Tiền Lê (Đại Cồ Việt, tồn tại 980- 1009), vùng đất này tiếp tục là căn cứ hậu cần của Lý Công Uẩn (sau này là vua Lý Thái Tổ, sáng lập triều Lý, trị vì 1009- 1028).
Thế kỷ 13, dưới thời nhà Trần (Đại Việt, tồn tại 1225-1400), khi nhà Nguyên (Trung Quốc, tồn tại 1271- 1368) diệt nhà Tống (Trung Quốc, tồn tại 960 -1279), một số người Trung Hoa (chính trị gia, thương gia) chạy sang Việt Nam tị nạn. Tại Phố Hiến, họ lập nên làng Hoa Dương. Một số người Việt từ nhiều địa phương khác nhau cũng tìm đến địa điểm này để giao lưu, buôn bán và định cư.
Theo sử sách, tên Phố Hiến có xuất xứ từ chữ Hiến của Hiến Doanh hay Hiến Nam, vốn là cơ quan hành chính của trấn Sơn Nam xưa, được cho xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 15, thời vua Lê Thánh Tông (hoàng đế thứ 5 của triều Hậu Lê, trị vì 1460- 1497).
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 17, Phố Hiến mới trở thành một trung tâm kinh tế với nhiều mối giao lưu trong nước và quốc tế. Lúc này, ở Phố Hiến có các công sở của trấn lỵ xứ Sơn Nam, cũng như các trạm tuần ty kiểm soát thuyền bè trong và ngoài nước.
Thế kỷ 17, giao thương giữa Phố Hiến đạt đến thời điểm cực thịnh, trở thành điểm nút trung chuyển quan trọng trên tuyến giao thương giữa Đàng Ngoài với các đô thị thương cảng tại Đàng Trong, vươn ra các tuyến giao thông quốc tế trên biển tới Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực Đông Nam Á, các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp...
Phố Hiến trở thành một đô thị kinh tế nổi bật tại vùng Hạ châu thổ Bắc Bộ.

Bản đồ Phố Hiến xưa, Hưng Yên
Suy thoái
Vào đầu thế kỷ 18, các tuyến giao thương trực tiếp bằng đường biển tại Trung Quốc, Nhật Bản trở nên thông thoáng hơn sau khi các quốc gia này dỡ bỏ lệnh cấm vận. Cùng với sự phát triển của các đội tầu có tải trọng lớn, vai trò của cảng biển (nước sâu) tại khu vực Đông Á dần trở nên quan trọng hơn cảng sông. Bến cảng Phố Hiến do sự bồi lở của sông Hồng chỉ có khả năng tiếp nhận thuyền buôn nhỏ. Trạm hải quan tại Phố Hiến đã được chuyển qua bến cảng biển Ninh Hải (Hải Phòng).
Các loại hàng hóa xưa sản xuất tại Đàng Ngoài (tơ sống, quế…) đã trở nên phổ biến tại các quốc gia Đông Á.
Các vị quan cai trị những giai đoạn sau này không còn được như xưa, vấn nạn tham nhũng, quấy nhiễu thương nhân lan tràn. Phố Hiến không còn là nơi đất lành.
Ngoại thương tại điểm trung chuyển Phố Hiến dần suy giảm. Các thương điếm phương Tây ở Phố Hiến lần lượt đóng cửa. Phố Hiến vắng hẳn các khách buôn nước ngoài, trừ người Trung Quốc.
Năm 1726, vào thời Lê - Trịnh (1545- 1787) trấn lị Sơn Nam được chuyển sang bên hữu ngạn sông Hồng thuộc huyện Duy Tiên (Hà Nam). Năm 1741, trấn Sơn Nam được tách thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ.
Sang thế kỷ 19, vào thời nhà Nguyễn (tồn tại năm 1802 -1945), kinh đô nước Việt chuyển vào Huế. Năm 1804, trấn lị Sơn Nam Thượng từ Phố Hiến đã được di chuyển về Châu Cầu (Phủ Lý). Năm 1831, tỉnh Hưng Yên được thành lập, Phố Hiến chỉ còn mang chức năng hành chính.
Cộng đồng dân cư Phố Hiến
Trong lịch sử phát triển, với vị trí giao thương thuận lợi, Phố Hiến đã trở thành nơi dành cho cả người Việt và người nước ngoài đến đây sinh sống, ví dụ như Trung Quốc, Nhật, Thái Lan, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…Trong đó người Việt và người Hoa có vai trò quan trọng.
Tại văn bia chùa Hiến dựng năm 1709, đã liệt kê tới hơn 50 địa phương khắp miền Bắc có người đến Phố Hiến làm ăn, sinh sống.
Bên cạnh cộng đồng người Việt, đông đảo người Hoa đã đến cư trú tại Phố Hiến.
Người Hoa đến đây từ hai nguồn chính:
Thứ nhất, họ là những người Hoa vượt biển từ Trung quốc sang Việt Nam tị nạn chính trị, khi nhà Nguyên (tồn tại 1271- 1368) diệt nhà Tống (tồn tại 960 -1279) và nhà Thanh (tồn tại 1636 – 1912) diệt nhà Minh (tồn tại 1368- 1644).
Thứ hai, họ là những thương nhân buôn bán trên biển, có quê gốc tại miền Nam Trung Quốc. Ngoài ra, những thương nhân này còn đến từ đường bộ qua biên giới, hoặc từ Thăng Long – Kẻ Chợ về đây buôn bán.
Những người Hoa lập các cửa hiệu, tập trung thành các phố thương mại. Ngoài nhà ở, cửa hàng, họ còn xây dựng nhiều chùa, đền, miếu, hội quán để lưu giữ Thần đạo của người Trung Quốc. Theo thời gian, những người này hòa nhập với cộng đồng người Việt và trở thành người Việt. Địa điểm tụ cư đầu tiên của người Hoa ở Phố Hiến là Hoa Dương, sau gộp thêm các xã Hoa Điền (Lương Điền), Hoa Cái (Phương Cái) hợp thành Tam Hoa. Các cửa hiệu của Hoa Kiều phổ biến là buôn bán vải vóc, đồ sứ, tạp hóa, thuốc Bắc; được tập trung ở phố Khách, phố Bắc Hoà, Nam Hoà; nhiều nhà xây gạch ngói. Người ta cho rằng, hiện vẫn có tới 14 dòng họ gốc Hoa Kiều sinh sống ở Phố Hiến như các họ: Ôn, Tiết, Hoàng, Lý, Trần, Bạch, Quách, Mã, Thái, Hà, Hứa, Từ, Lâm, Khu…
Sau này, khi giao thương với châu Âu phát triển, người Hoa còn có vai trò vận chuyển thuê cho các thương gia đến từ các nước châu Âu như Hà Lan, Anh (Công ty Đông Ấn) và các quốc gia tại khu vực Đông Á.
Họ vận chuyển tơ sống (xuất sang Nhật Bản); bạc và đồng (nhập từ Nhật); hồ tiêu, đường, lưu huỳnh, diêm tiêu (nhập từ các quốc gia Nam Á); lụa, đồ gốm, sơn mài (xuất đi Batavia, thủ phủ của Đông Ấn Hà Lan, ngày nay là Jakarta, Indonesia)…
Vào thế kỷ 18, 19, khi việc buôn bán sa sút, các thương gia người Hoa một phần trụ lại Phố Hiến, một phần quay trở lại Thăng Long – Hà Nội.
Người Nhật cũng đến Phố Hiến vào khoảng đầu thế kỷ 17, chủ yếu là các thương nhân buôn bán xuyên đại dương. Họ mang bạc, đồng đến đây mua, đổi các loại tơ. Vào năm 1635, thời Mạc phủ Tokugawa, (chính quyền do tầng lớp võ sĩ Nhật Bản lãnh đạo, trị vì từ năm 1603- 1868, triều đình Thiên Hoàng chỉ có ý nghĩa tượng trưng) với sự ra đời của Luật bế quan tỏa cảng (Tòa Quốc), chỉ các chuyến tàu hồi hương mới được phép cập bờ. Nhiều kiều dân Nhật Bản không dám trở về và lưu lại Phố Hiến (cũng như Hội An, Quảng Nam, Việt Nam). Những người Nhật này thường làm những nghề như hoa tiêu dẫn tàu thuyền vào cửa sông, phiên dịch, môi giới…Một số người lập các lò sản xuất gốm Hizen với các vật dụng điển hình như ấm, chén, bình rượu, hộp nhỏ, được trang trí bởi các loại men và hình tượng mang đậm văn hóa Nhật Bản. Tại đây còn có nghĩa trang dành riêng cho người Nhật Bản.
Ngoài ra, tại Phố Hiến còn có các thương nhân Châu Á khác như Thái Lan, Malaysia, Philipin…
Thương nhân phương Tây đến Phố Hiến chủ yếu là người Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh và Pháp. Người Bồ Đào Nha đến sớm nhất, vào năm 1626. Một số người phương Tây đến đây kết hợp việc buôn bán với truyền giáo.
Phố Hiến – Đô thị kinh tế và văn hóa
Phố hiến là một đô thị trải dài theo bờ tả ngạn sông Hồng (đoạn sông Xích Đằng), ngày nay tương ứng với phần đất của thôn Đằng Châu (xã Lam Sơn, thành phố Hưng Yên) và thôn Nễ Châu (xã Hồng Châu, thành phố Hưng Yên) trên một diện tích 5km x 1km, khoảng 500ha. Phố Hiến được sử sách miêu tả là một phố thị khá lớn với chừng 2000 nóc nhà, tương đương khoảng 1 vạn dân.
Phố Hiến là một đô thị tương đối đặc biệt, không có thành lũy bao quanh, chỉ có yếu tố thị mà không có yếu tố thành, mặc dù tại đây cũng có đồn binh với nhiều quân sĩ đồn trú.
Các vị quan cai trị Phố Hiến không chỉ được triều đình tín nhiệm, dân chúng yêu mến mà còn được cả các thương gia nước ngoài nể trọng. Một trong những vị quan có công mở mang, xây dựng Phố Hiến là Quận công Thái Bảo Lê Đình Kiên (1620-1704), quan dưới thời Lê Trịnh. Ông là vị quan tài năng, đức độ, không những có tài về cai trị mà còn giỏi thương nghiệp, ngoại giao, nổi tiếng trong việc giao thiệp với các thương nhân ngoại quốc đến buôn bán tại Phố Hiến.
Lúc ông mất, cả người Việt và người nước ngoài ngụ ở Phố Hiến đều dựng miếu thờ, tạc bia ghi công ông.
Trên tấm bia khắc ca ngợi ông, một thương nhân Trung Quốc viết: “Ngài yêu dân như yêu con, dẹp yên giặc biển, tiết kiệm tiêu pha, ngay cả con trẻ cũng biết và ca ngợi lòng trung của ngài với vua với nước…Là những thương nhân đến từ xa, không dám tự coi mình là những thần dân, nhưng vì đã sống lâu năm ở Việt Nam, chúng tôi tỏ lòng nhiệt thành sủng ái ngài…”.
Nhiều viên quan cai trị tại Phố Hiến được coi là đại thần của quốc gia, là mẫu mực về giải quyết các việc công.
Phố Hiến từ một điểm dân cư trở thành một đô thị kinh tế lớn vào thế kỷ 17. Lúc đầu là các hoạt động buôn bán qua mạng lưới chợ. Sau đó, thương nghiệp ngày càng phát triển và trở thành hoạt động kinh tế mũi nhọn, xuất hiện sự chuyển dịch trọng tâm từ kinh tế nội sinh (thủ công nghiệp, buôn bán trong nước) sang kinh tế ngoại sinh (buôn bán với nước ngoài).
Ngoài chức năng là trung tâm hành chính trấn Sơn Nam với các cơ quan công quyền, Văn Miếu (nơi tổ chức các cuộc thị lựa chọn hiền tài)… diện mạo đô thị kinh tế của Phố Hiến thể hiện qua các không gian chức năng: Bến cảng sông; Hệ thống chợ; Khu phố phường; Hiệu buôn của người nước ngoài, đặc biệt là phương Tây.
Bến cảng Phố Hiến là nơi các tàu thuyền ngoại quốc lưu đỗ để làm thủ tục kiểm soát và xin giấy phép đi tiếp tới Kinh đô.
Cùng với bến cảng là hệ thống các khu chợ khá sầm uất như chợ Vạn, chợ Hiến, chợ Bảo Châu...Những chợ này đã vượt khỏi khuôn khổ những chợ địa phương để thành các chợ liên vùng, liên quốc gia.
Khu phố phường là các khu định cư của người Việt và các kiều dân ngoại quốc (chủ yếu là người Hoa),
Theo các văn bia ở chùa Hiến (1709) và chùa Chuông (1711), Phố Hiến thời đó có khoảng 20 phố phường. Qua các bi ký, có thể đọc được 13 phố và 32 tên cửa hiệu buôn bán như các Tân Thị, Tân Khai, Tiên Miếu, Hậu Trường…
Trong thế kỷ 17, các hiệu buôn (thương điếm) của người Phương Tây đã được dựng lên ở Phố Hiến, ví như: Thương điếm Hà Lan (1637-1700) buôn bán tơ sống, quế; Thương điếm Anh (1672-1683) buôn bán nguyên liệu lưu huỳnh tạo thuốc súng, vũ khí, hợp kim kẽm – đồng – sắt để đúc tiền, các loại dạ và vải khổ rộng của Anh, đồ kỹ xảo ngoại quốc dành cho vua chúa; đặt mua để xuất khẩu tơ lụa, đồ gỗ sơn mài, gốm sứ, hương liệu, xạ hương, lâm thổ sản…Phương thức mua bán ngoài việc trả tiền mặt còn có trao đổi hàng hóa.. Mỗi thương điếm là một quần thể kiến trúc văn phòng đại diện kiêm nhà kho của các Công ty Đông Ấn (Hà Lan, Anh). Các công trình được xây bằng gạch, sau này đã bị phá hủy hoàn toàn.
Kiến trúc tại đô thị Phố Hiến là sự đa dạng phong cách, từ kiến trúc Việt Nam, kiến trúc Trung Hoa (tại vùng Phúc Kiến, miền Nam Trung Quốc) đến kiến trúc châu Âu (ví như phong cách kiến trúc Gothic của nhà thờ Phố Hiến)...
Truyền thuyết về Chuông thần
Có nhiều truyền thuyết về Phố Hiến, trong đó có liên quan đến chùa Chuông và chuông chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, Hà Nội).
Khi dời kinh đô từ Hoa Lư, Ninh Bình về Đại La, Thăng Long, để khơi thông nguồn lực, năm 1108, vua Lý Nhân Tông (Hoàng đế thứ 4 triều Lý, trị vì năm 1072-1128) cho đúc một chiếc chuông lớn đặt tại chùa Diên Hựu, tên là Giác Thế Chung (chuông Thức tỉnh thiên hạ). Đây được xem là một trong Tứ đại khí của Việt Nam thời Lý, bao gồm: Tháp Báo Thiên, Chuông Qui Điền, Vạc Phổ Minh và Tượng Phật Quỳnh Lâm.
Chuông chùa thường có hai dạng: Chuông treo trong tháp gọi là tháp chuông và chuông đặt trên mặt đất trong một tòa nhà gọi là tòa chuông. Chuông chùa Diên Hựu to nên đặt trên mặt đất, trong tòa chuông, tại rìa chùa. Rùa ngoài ruộng thường bò vào trú bên trong, nên dân gian gọi đây là chuông Quy Điền.
Điều kỳ diệu là khi chuông Quy Điền ngân lên, bao nhiêu vàng bạc, châu báu và hiền tài của thiên hạ theo đó đổ về. Thăng Long thành đất Kinh kỳ phồn thịnh.
Người phương Bắc lo sợ, nhiều lần cử người tìm đến. Người dân bèn mang chuông giấu đi, chỉ cho một số ít người tin cậy biết, để truyền lại cho đời sau.
Đầu thế kỷ 15, nhà Minh xâm lược Đại Việt, quyết cho quân phá chuông Quy Điền.
Vào thời điểm này, xảy ra một trận đại hồng thủy trên sông Hồng. Tại thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, Hưng Yên, có một quả chuông trôi vào bãi sông. Dân làng cho là Trời, Phật mách bảo bèn góp công của dựng chùa, xây tòa đặt chuông, gọi là Kim Chung Tự - chùa Chuông Vàng. Khi chuông chùa ngân lên, không chỉ vàng bạc, châu báu mà cả hiền tài của thiên hạ theo đó đổ về Phố Hiến. Nơi đây trở nên trù phú, ngoài Kinh kỳ Thăng Long, không đâu sánh kịp. Người dân cho rằng, chuông tại chùa Chuông chính là chuông Quy Điền. Trong chùa Chuông có một tấm bia đá ghi lại các sự kiện thịnh vượng của Phố Hiến, như muốn báo với Tiền nhân về công tích của Chuông thần.
Người phương Bắc biết, lại cử người tìm đến. Người dân lần nữa lại mang chuông giấu kỹ.
Từ khi Chuông thần không ngân vang, tiền của không đổ về, hiền tài không hội tụ. Phố Hiến dần suy tàn.
Khu di tích Phố Hiến
Khu di tích Phố Hiến gồm 16 di tích tiêu biểu, đại diện cho khoảng 100 di tích lịch sử được bảo tồn và lưu giữ tại Phố Hiến, phân bố trong 6 phường, xã của thành phố Hưng Yên:
Phường Lam Sơn: Văn Miếu Xích Đằng, đền Mây, đền Kim Đằng;
Phường Hiến Nam: Chùa Chuông, đình An Vũ, đền Nam Hòa;
Phường Quang Trung: Chùa Phố, đền Trần, đến Mẫu, đền Thiên Hậu, đền Bà Chúa Kho, Võ Miếu;
Phường Lê Lợi: Đền Cửu Thiên Huyền Nữ;
Phường Hồng Châu: Đình- chùa Hiến, Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu Cung;
Xã Hồng Nam: Chùa Nễ Châu.
Dưới đây là 12 di tích đình, đền, miếu trong 16 di tích tiêu biểu trên:
Văn Miếu Xích Đằng
Văn Miếu Hưng Yên tọa lạc tại khu phố Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên nên được gọi là Văn Miếu Xích Đằng. Công trình là một trong số di tích lịch sử của Khu di tích Phố Hiến.
Văn Miếu Xích Đằng là nơi thờ Vạn thế sư biểu Khổng Tử (người Trung Hoa, 551 - 479 TCN, sáng lập ra Nho giáo) và các chư hiền của Nho gia. Cùng phối thờ với Khổng Tử là nhà giáo Chu Văn An (người Việt Nam, 1292 – 1370, hiệu trưởng đầu tiên của Văn miếu Quốc Tử Giám).
Vào thế kỷ 15, dưới thời vua Lê Thánh Tông (hoàng đế thứ 5, nhà Hậu Lê, trị vì từ năm 1460- 1497), nhiều chính sách nhằm hoàn thiện bộ máy hành chính, kinh tế, giáo dục – khoa cử, luật pháp được ban bố gắn với việc chấn hưng lại Đạo Nho. Để tìm kiếm người tài cống hiến cho quốc gia, vua Lê Thánh Tông đặt lệ 3 năm mở 1 khoa thi lớn, cho cho phép những người thi đỗ được về quê vinh quy bái tổ, lại cho dựng văn bia ghi tên họ ở Văn Miếu. Trong thời ông trị vì có tới 12 kỳ thi lớn, lấy đỗ hơn 500 người.
Những năm sau này, các vị vua tiếp theo cho thành lập thêm nhiều trường học (Văn Miếu) tại các trấn. Ở trấn Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, một phần đất của Hà Nội và Hưng Yên) có Văn miếu Xích Đằng (hay còn có tên là Văn miếu Sơn Nam), được xây dựng vừa làm nơi để thờ tự các bậc hiền nho, vừa là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn. Khi chia tách lại các trấn, Vắn Miếu Xích Đằng trở thành Văn Miếu của trấn Sơn Nam Thượng và sau này của tỉnh Hưng Yên.
Tương truyền, Văn Miếu Xích Đằng được xây dựng trên nền ngôi chùa cổ Nguyệt Đường, do Hương Hải thiền sư khởi dựng năm 1701, dưới sự trợ giúp của Quận công Lê Đình Kiên - quan trấn thủ trấn Sơn Nam.
Dấu tích còn sót lại của ngôi chùa cổ là hai ngôi mộ tháp đá, bên trong đặt xá lị của hai vị sư tổ trụ trì chùa: Phương Trượng tháp” cao 5 tầng thờ Viên Thông đại hòa thượng; “Tịnh Mãn tháp” cao 3 tầng thờ Hương Hải thiền sư.
Văn Miếu Xích Đằng còn là nơi tôn vinh Nho giáo (Khổng giáo) của người Hoa và người Việt tại Phố Hiến.
Công trình được khởi dựng vào những năm cuối thời Hậu Lê. Quy mô ban đầu còn nhỏ, năm 1839, thời Nguyễn (1802–1945) được xây dựng lại có quy mô như hiện nay.
Vào thời Nguyễn, Văn Miếu Xích Đằng là nơi tổ chức các kỳ thi Hương và sát hạch thí sinh đi dự kỳ thi Hội.
Đây là một trong số sáu Văn miếu xưa còn tồn tại trong cả nước (Văn Miếu- Quốc Tử Giám, Hà Nội; Văn miếu Xích Đằng, Hưng Yên; Văn miếu Mao Điền, Hải Dương; Văn miếu Bắc Ninh; Văn thánh miếu Huế; Văn miếu Vĩnh Long…).
Lễ hội hàng năm tại Văn Miếu Xích Đằng diễn ra vào 4 - 5 tháng Giêng âm lịch.
Văn Miếu Xích Đằng rộng 6000m2, có bố cục quay về hướng Nam, gồm: Nghi môn, Sân, Chính điện và các công trình phụ trợ khác.

Phối cảnh tổng thể Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Nghi môn
Nghi môn (Tam quan) Văn Miếu Xích Đằng được xây dựng đồ sộ, bề thế (như Nghi môn Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội) gồm 2 tầng. Tầng dưới tạo thành Tam quan với 3 cửa vòm, được giới hạn bởi các trụ ốp tường, tạo thành các ô trang trí câu đối. Cửa vòm giữa cao, rộng; 2 cửa vòm hai bên nhỏ và thấp. Tấng 2 gồm 3 khối; Khối chính giữa có mặt trước và sau với ô cửa hình tròn, mái 2 tầng, 8 mái; 2 khối hai bên có mặt trước và mặt sau với ô cửa vòm, mái 1 tầng 4 mái. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi Hương trước đây.
Phía trước Nghi môn là một đôi nghê đá được tạc từ thế kỷ 18 với đuôi dài và thân được chạm khắc vân mây.
Nghi môn Văn Miếu Xích Đằng là công trình kiến trúc đặc sắc vẫn giữ nguyên vẹn từ khi xây dựng và hiện được sử dụng như là biểu tượng văn hóa tại tỉnh Hưng Yên.

Nghi môn Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Sân Văn Miếu
Sau Nghi môn là một sân rộng, lát gạch. Hai bên được giới hạn bởi Lầu chuông, Lầu khánh và hai dãy Tả vu, Hữu vu. Đây là nơi diễn ra các kỳ thi Hương.
Giữa sân có một đường Thập đạo bằng gạch, được xây nổi lên trên mặt sân, chia sân thành 4 ô lớn, là nơi các sĩ tử ngồi thi. Giao của đường thập đạo đặt một tháp bằng tre, nơi giám khảo ngồi quan sát thí sinh làm bài.
Lầu chuông và Lầu khánh có mặt bằng hình vuông, kiến trúc xây gạch đơn giản, 1 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái.
Lầu chuông treo quả chuông bằng đồng, đúc năm 1804. Lầu khách treo một khánh đá, dựng năm 1803.
(Tại Văn miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội, Lầu khánh được thay bằng Lầu trống).
Tả vu và Hữu vu là tòa nhà 5 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái. Cột hàng hiên và trụ biểu nhô ra tại tường hồi đều có các ô trang trí câu đối. Xưa kia, đây là nơi các quan để cỗ kiệu, sửa soạn mũ áo trước khi vào lễ Khổng Tử. Ngày nay, đây là nơi trưng bày những hình ảnh về giáo dục và du lịch tỉnh Hưng Yên.

Đường Thập đạo tại sân Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên

Tòa Tả vu và Lầu chuông tại sân trong Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên

Lầu chuông Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên

Lầu khánh Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Chính điện
Chính điện hay Nội tự có kiến trúc kiểu chữ tam, bao gồm 3 tòa đặt song song với nhau: Tiền đường, Trung đường và Hậu đường, kiểu "trùng thiềm điệp ốc"(mái nối liền nhau), theo kiểu kiến trúc cung đình Huế triều Nguyễn.
Tiền đường gồm 5 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái. Chiều rộng của nhà mỏng như một hàng hiên.
Trung đường gồm 5 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái, chiều dài như nhà Tiền đường, song chiều rộng lớn hơn.
Hậu đường có mặt bằng tương tự như Trung đường, song có 4 mái.
Tại tòa Trung đường, gian giữa đặt tượng thờ Nhà giáo Chu Văn An.
Tại tòa Hậu đường, gian giữa đặt tượng thờ Khổng Tử. Hai bên là ban thờ Tứ Phối (4 học trò nổi tiếng của Khổng Tử: Nhan Hồi, Tăng Sâm, Tử Tư và Mạnh Tử).
Nội tự Văn miếu được trang trí bởi hệ thống đại tự, câu đối, cửa võng và hệ thống kèo cột sơn son thếp vàng. Hiện vật quý giá xưa còn lại của Văn Miếu Xích Đằng là 9 tấm bia đá, trong đó 8 bia được lập năm 1888, một bia được lập năm 1943, ghi danh 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam Thượng xưa, trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình.

Phối cảnh tổng thể Nội tự hay Chính điện Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên

Tòa Tiền đường Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên

Ban thờ Chu Văn An tại Trung đường, Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Bàn thờ Khổng Tử cùng các học trò tại Hậu đường, Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên

Nơi đặt 9 tấm bia cổ ghi danh các vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam Thượng, Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến

Phương Trượng tháp còn lại trong khuôn viên Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến

Tĩnh Mãn tháp còn lại trong khuôn viên Văn Miếu Xích Đằng, Phố Hiến
Văn miếu Xích Đằng là một trong những di tích thể hiện tầm quan trọng về vị thế chính thể và văn hóa của Khu phố cổ Phố Hiến.
Đền Mây
Đền Mây nằm cạnh bến đò Mây (bến Lảnh) bên sông Hồng, thuộc phủ Đằng Châu xưa, vì vậy còn gọi là đền Đằng Châu. Năm 1005, nhà Tiền Lê (tồn tại 980- 1009) đổi Đằng Châu thành phủ Thái Bình. Ngày nay, đền nằm tại khu phố Đằng Châu, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên.
Đền thờ tướng quân Phạm Bạch Hổ (tên xưng Phạm Phòng Át, 910-972), là một vị tướng tài ba của nước Việt trong thời kỳ đầu độc lập. Tương truyền, mẹ ông nằm mộng thấy Hổ trắng mà có mang nên sau khi sinh đã đặt tên là Bạch Hổ.
Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, là tướng tài của Dương Đình Nghệ (874 – 937), phù giúp Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938. Khi Ngô Quyền xưng Vương (trị vì năm 939- 944), lập nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa, Phạm Bạch Hổ lui về vùng đất Đằng Châu. Khi nhà Ngô mất (965), ông trở thành một trong 12 sứ quân thời đó.
Vào năm 968, khi Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp các sứ quân, Phạm Bạch Hổ đã quy thuận. Ông được vua Đinh Tiên Hoàng (hoàng đế sáng lập nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt, trị vì năm 968- 979) phong làm Thân Vệ Đại tướng quân.
Ông đã lập được nhiều công lao trong sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Tiên Hoàng. Khi ông mất, được vua Lê Đại Hành (hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, nước Đại Cồ Việt, trị vì năm 980 – 1005) phong là Đằng vương, sắc cho dân lập đền thờ và suy tôn ông làm Thành hoàng. Đền xây dựng xong, vua Lê Đại Hành phong tặng ông là “Khai thiên hộ quốc thượng đẳng tối linh thần”.
Theo văn bia ở đền, đền Mây được xây dựng vào thời nhà Ðinh, tu sửa vào thời Hậu Lê. Ðến thời nhà Nguyễn, năm 1884, năm 1898, đền được xây dựng lại có diện mạo như ngày nay.
Đền với cây đa gần 1 ngàn năm tuổi đã đi vào ca dao: ”Trăm cảnh ngàn cảnh không bằng bến Lảnh Đền Mây”.
Ngôi đền mang đậm phong cách thời Hậu Lê đan xen phong cách kiến trúc thời Nguyễn.
Đến bố cục theo hướng Nam, gồm: Nghi môn, Chính điện và các công trình phụ khác.
Nghi môn
Nghi môn đền Mây là một tòa nhà 3 gian, mái 2 tầng, 8 mái.
Sau Tam quan là sân đền phía trước Chính điện.

Nghi môn đền Mây, Phố Hiến, Hưng yên
Chính điện
Chính điện đền Mây gồm 3 tòa bố trí song song nhau: Tiền đường, Trung đường và Hậu đường.
Tiền đường 3 gian rộng, tường hồi bít đốc, 2 mái; kết cấu kiểu chồng rường, giá chiêng; chân cột được kê lên đá tảng vuông. Tại kết cấu mái, các con rường được chạm hình hoa xoắn và kê lên đấu vuông thót đáy; đầu dư chạm thành đầu rồng mềm mại, uyển chuyển; các bức cốn chạm chủ đề Tứ linh, Tứ quý.
Cửa phía trước của Tiền đường là cửa bức bàn, thượng song hạ bản.
Chính giữa toà Tiền đường treo bức đại tự khảm trai có ghi hàng chữ “Thái Bình vương Phủ”. Dân gian coi Đằng Vương Phạm Bạch Hổ là vị thần thống trị phủ Thái Bình (Đằng Châu) xưa.
Hai bên tòa Tiền đường có tòa Tả vu và Hữu vu.
Trung đường 5 gian, nằm song song với tòa Tiền đường, song nền nhà cao hơn, kết cấu kiểu giá chiêng với hệ thống cột gỗ lim kê trên chân đá tảng lớn hình quả bồng. Trung đường là nơi thờ 4 vị quan văn võ hậu cận của Đằng Vương Phạm Bạch Hổ. Hai bên ban thờ có các câu đối ca ngợi công tích của Đằng Vương.
Hậu cung đền Mây gồm 3 gian, kết cấu chồng rường đơn giản, không chạm trổ hoa văn. Bên trong đặt tượng thờ Đằng vương Phạm Bạch Hổ, thân mẫu, phu nhân và con trai ông.

Chính điện đền Mây, Phố Hiến, Hưng Yên

Ban thờ bên trong Chính điện đền Mây, Phô Hiến Hưng Yên

Hậu cung đền Mây thờ 3 pho tượng: Phạm Bạch Hổ (bên phải), Phu nhân (bên trái) và Thánh mẫu (ở giữa)
Trong đền còn lưu giữ 27 pho tượng cổ, hầu hết được tạo tác từ thời Hậu Lê; 6 bia đá thời Hậu Lê và thời Nguyễn; 10 bức đại tự; 2 cỗ kiệu bát cống; 1 lư đồng, 18 đạo sắc phong qua các triều đại phong kiến...
Hàng năm, đền Mây thường tổ chức lễ hội vào ba dịp: Ngày mồng 8 đến 16 tháng Giêng kỷ niệm ngày sinh; ngày 12 đến 18 tháng 11 âm lịch kỷ niệm ngày mất của Tướng quân; ngoài ra, nhân dân còn kỷ niệm ngày mất của thân mẫu Phạm Bạch Hổ từ ngày 16 đến 24 tháng 6 âm lịch.
Ðền Mây cũng như chùa Chuông ở phố Hiến là hai di tích nổi tiếng vì còn lưu giữ được phong cách kiến trúc thuần Việt.
Đền Kim Đằng
Đền Kim Đằng tọa lạc tại khu phố Kim Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên.
Đền thờ tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương, cùng phối thờ còn có tướng quân họ Phan, họ Phạm và Họ Nguyễn.
Đinh Điền quê ở làng Đại Hữu, nay là xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Ông cùng làng với Đinh Bộ Lĩnh (vua Đinh Tiên Hoàng, sáng lập nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt, trị vì 968 -979) và theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước.
Vào năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị sát hại, triều đình suy tôn Vệ Vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên kế ngôi. Nhân lúc Đại Cồ Việt rối ren, nhà Tống Trung Quốc (960 -1279) cho quân sang xâm lược. Trước họa ngoại xâm, quân sĩ tôn Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua. Không chấp nhận việc đó, quan Ngoại Giáp Đinh Điền và Định Quốc Công Nguyễn Bặc đem hai đạo quân thủy bộ từ Ái Châu (Thanh Hóa) tiến về kinh thành Hoa Lư đánh Lê Hoàn phục hưng cho nhà Đinh. Cuộc chiến thất bại, Đinh Điền tử trận, đạo quân tan rã.
Đền Kim Đằng được người dân trong vùng khởi dựng từ khá sớm, ngay sau khi Đinh Điền cùng phu nhân Phan Thị Môi Nương mất. Công trình được xây dựng trên nền của đại bản doanh của tướng quân khi xưa.
Trải qua nhiều lần trùng tu, hiện nay đền Kim Đằng gồm các hạng mục công trình: Nghi môn, Chính điện và các công trình phụ khác.
Nghi môn
Phía trước Nghi môn hay Tam quan là hồ rộng lớn.
Nghi môn gồm 4 trụ biểu, đỉnh trụ trang trí tứ phượng; thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối, đế trụ thắt dạng cổ bồng. Phía ngoài, mỗi bên, giữa hai trụ biểu có một cổng phụ, phía trên có mái 2 tầng, 8 mái.

Nghi môn đền Kim Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên
Chính điện
Chính điện đền Kim Đằng có kiến trúc kiểu ”chữ đinh” hay chữ T, gồm Tiền đường và Hậu cung.
Tiền đường 5 gian, kiểu chồng diêm 2 tầng, đầu hồi bít đốc, 4 mái. Kết cấu các bộ vì kèo kiểu quá giang đơn giản, được nâng đỡ bằng hệ thống cột gỗ lim.
Hậu cung 3 gian. Kết cấu các bộ vì kèo kiểu con chồng, đấu sen. Trên các con rường chạm nổi hình hoa lá cách điệu. Gian giữa đặt tượng tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương, trong tư thế ngồi tọa thiền.
3 gia tướng của Đinh Diền cũng được phối thờ tại đây.
Đền Kim Đằng hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như hoành phi, câu đối, đặc biệt là 11 đạo sắc phong thời Hậu Lê và thời Nguyễn.

Chính điện đền Kim Đằng, Phố Hiến, Hưng Yên

Hậu cung và tượng thờ tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương
Hàng năm, lễ hội đền Kim Đằng tổ chức từ ngày 15 đến 17 tháng 11 âm lịch để tưởng nhớ tới ngày mất của tướng quân Đinh Điền và phu nhân.
Đình An Vũ
Đình An Vũ nằm tại khu phố An Vũ, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên.
Đình được xây dựng trên thế đất hình chim Phượng Hoàng với khuôn viên rộng 3135m2, là vọng gác tiền tiêu của Phố Hiến xưa.
Đình thờ Cao Sơn Đại vương có tên là Nguyễn Hiền, người xã Thanh Uyên, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Ông là danh tướng thời vua Hùng Duệ vương (vua Hùng thứ 18, trị vì ? – 258 TCN), đã cùng Tản Viên Sơn thánh kết nghĩa anh em. Hai ông cùng phò giúp vua Hùng đánh thắng quân Thục xâm lược. Sau khi mất, ông được dân làng An Vũ tôn làm thành hoàng của làng và thờ phụng trong đình làng.
Đình An Vũ xây dựng vào năm 1741, thời Hậu Lê, được trùng tu, tôn tạo vào năm 1929, thời Nguyễn.
Đình có bố cục hướng Tây, gồm: Nghi môn, Sân đình và Đại đình.
Nghi môn
Nghi môn đình gồm 4 trụ biểu. Hai trụ biểu giữa cao, hai trụ biểu hai bên thấp. Đỉnh trụ trang trí tứ phượng; thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối, đế trụ thắt dạng cổ bồng.
Sau Nghi môn là sân đình rộng gắn với ao và giếng đình.

Nghi môn đình An Vũ, Phố Hiến, Hưng Yên
Đại đình
Đại đình có mặt bằng kiến trúc kiểu ”chữ đinh” hay chữ T, gồm Đình và Hậu cung.
Đình 5 gian, 2 dĩ, kiến trúc đỡ mái theo kiểu giá chiêng chồng rường; bốn đầu dư đỡ câu đầu chạm lộng hình đầu rồng mang đậm dấu ấn kiến trúc, mỹ thuật thời Hậu Lê. Các cấu kiện như kẻ, bẩy, con rường đều chạm bong kênh hoa văn hình lá lật, hoa dây mềm mại.
Không gian bên trong đình tương tự như các ngôi đình truyền thống vùng Đồng bằng Bắc Bộ: Hai gian hai bên có sàn gỗ, cách nền khoảng 0,5m. Đình là nơi người dân trong làng hội họp khi có việc làng.
Hậu cung 3 gian, tường hồi bít đốc, 2 mái. Bên trong đặt ban thờ Cao Sơn Đại vương.

Mặt trước tòa Đài đình, đình An Vũ, Phố Hiến, Hưng Yên
Đình An Vũ có các mảng chạm khắc trang trí thời Lê đan xen thời Nguyễn. Trong đình còn lưu giữ nhiều hiện vật, đồ thờ có giá trị như: Tượng Cao Sơn Đại vương, đỉnh đồng, chuông đồng và đặc biệt là 5 đạo sắc phong thời Nguyễn.
Hằng năm, vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, người dân tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công lao của Thành hoàng.
Đền Nam Hòa
Đền Nam Hoà được xây dựng tại làng Nam Hòa xưa, nay là đường Bãi Sậy, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên. Vào thế kỷ 17, làng Nam Hòa xưa là nơi tụ cư của cả người Nhật.
Đền Nam Hoà thờ ba vị Thiên thần, gồm Đức Thiên Quan, Đức Thổ Địa Long thần và Đức Thuỷ Phủ. Đây là những vị thần đại diện cho sức mạnh của Tam giới là Thiên, Địa, Thủy.
Đền Nam Hoà được khởi dựng từ rất sớm. Đến thời Nguyễn, đầu thế kỷ 19, ngôi đền được trùng tu với quy mô lớn, gồm bốn toà kiên cố. Trải qua thời gian và những biến động của lịch sử, xã hội, ngôi đền đã bị phá hủy.
Sau đó, đền Nam Hòa được người dân phục dựng lại trên nền toà Hậu cung xưa.
Đền ngày nay nằm trên diện tích rộng 720m2, gồm một tòa 3 gian, 4 mái.

Mặt trước đền Nam Hòa, Phố Hiến, Hưng Yên
Lễ hội đền Nam Hoà thường được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 3 cùng dịp với lễ hội đền Mẫu, đền Trần và lễ hội đình, chùa Hiến...
Đền Trần
Đền Trần nằm bên cạnh hồ Bán Nguyệt, thuộc phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên.
Hồ Bán Nguyệt được cho là một nhánh sông Xích Đằng xưa, dẫn sâu vào đất liền.
Đền tôn thờ Anh hùng dân tộc Việt Nam Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1228- 1300). Tại khu vực Đồng bằng Bắc Bộ có rất nhiều đền thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo.
Phố Hiến xưa là nơi hội tụ của sông Đáy, sông Hồng, sông Thái Bình, lại gần cửa biển nên trở thành vị trí chiến lược trọng yếu, thuận lợi cho cả giao thông thủy bộ. Vì vậy, Trần Hưng Đạo đã chọn nơi đây làm địa điểm đóng quân trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông.
Theo truyền thuyết, đền Trần tại Phố Hiến, được khởi dựng vào nửa đầu thế kỷ 14 sau khi Hưng Đạo Đại vương mất.
Năm 1863, 1892, thời Nguyễn, đền được trùng tu, tôn tạo và còn để lại đến ngày nay.
Đền có bố cục quay về hướng Tây, ra phía hồ Bán Nguyệt, gồm: Nghi môn, Chính điện và các công trình phụ trợ khác:
Nghi môn
Nghi môn của đền Trần được xây dựng theo kiểu chồng diêm, gồm 3 khối cổng.
Khối cổng giữa rộng, lớn, 2 tầng mái, 8 mái, cửa xây vòm cuốn, phía trên có chữ đề: “Trần Đại Vương từ”.
Hai khối cổng hai bên nhỏ, thấp, 2 tầng mái, 8 mái, cửa xây vòm cuốn. Hai bên cổng phụ có trụ biểu, đỉnh trụ trang trí con nghê chầu, thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối, đế trụ thắt dạng cổ bồng.
Phía tay phải ngoài sân là đền thờ Tam Tòa Thánh Mẫu.

Nghi môn đền Trần, Phố Hiến, Hưng Yên
Chính điện
Chính điện đền Trần gồm 4 tòa đặt song song liền nhau: Tiền đường, Nhị đường, Tam đường và Hậu đường.
Tiền đường, Nhị đường, Tam đường 5 gian, đầu hồi bít đốc 2 mái.
Hậu đường 3 gian. Gian trung tâm Hậu đường đặt ban thờ Đức Thánh Trần. Phía sau là ngai, bài vị Tổ nghiệp họ Trần cùng gia đình và hai gia tướng tài danh là Yết Kiêu, Dã Tượng.
Hiện nay, đền Trần còn bảo lưu được nhiều hiện vật có giá trị về lịch sử - văn hóa và mỹ thuật. Đó là hệ thống cửa võng, câu đối, ngai thờ, bia đá… và đặc biệt là 8 đạo sắc phong thời Nguyễn.

Tòa Tiền đường đền Trần, Phố Hiến, Hưng Yên

Ban thờ bên trong đền Trần, Phố Hiến, Hưng Yên
Vào ngày 8/3 và 20/8 âm lịch, tại đền Trần, người dân tổ chức lễ hội kỷ niệm ngày chiến thắng Bạch Đằng lịch sử và ngày hóa của Đức Thánh Trần.
Đền Mẫu
Đền Mẫu có tên chữ là Hoa Dương Linh từ, nằm cạnh hồ Bán Nguyệt, tại đường Bãi Sậy, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên.
Đền thờ Tứ vị thánh nương, có nguồn gốc từ vương triều nhà Nam Tống, Trung Quốc.
Theo sử sách, Năm 1279, sau thất bại trong trận hải chiến Nhai Sơn, giữa nhà Nguyên (tồn tại 1271- 1368) và nhà Tống (tồn tại 960 -1279), vua Tống Đế Bính (Triệu Bính, năm 1271- 1279, vị hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của vương triều Nam Tống, trị vì 5/1278- 3/1279), khi đó mới 9 tuổi, cùng hoàng tộc và quân thần bỏ chạy ra biển. Do quân Nguyên truy sát và biết không thể thoát, vua Tống, hoàng tộc cùng quần thần đã nhảy xuống biển tuẫn tiết. Bảy ngày sau, có đến hàng ngàn xác chết nổi lên mặt biển. Xác vua Tống Đế Bính cũng ở trong số đó.
Có 4 xác trôi về làng chài Cờn Môn (nay thuộc phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai, Nghệ An). Người dân theo hình dáng và trang phục biết là người tôn quý nên đắp mộ và dựng ngôi miếu nhỏ để thờ. Sau này, mới biết đó là Thái hậu Dương Nguyệt Quả, là mẹ của vua Tống Đoan Tông (vị hoàng đế thứ 8 nhà Nam Tống, trị vì 1276- 1278, anh trai của vua Tống Đế Bính), hai công chúa là Triệu Nguyệt Khiêu, Triệu Nguyệt Hương và bà nhũ mẫu. Từ đó, ngôi miếu được xây dựng khang trang hơn, trở thành đền Cờn và còn thờ thêm cả vua Tống Đế Bính cùng các quan đại thần của ngài. Các bà thường hiển linh về giúp nhân dân trong vùng.
Năm 1294, vua Trần Anh Tông (hoàng đế thứ 4 triều Trần, trị vì năm 1293- 1314) thân chinh đi đánh giặc Chiêm Thành, qua đây thấy khung cảnh yên tĩnh đã cho quân dừng lại. Đêm hôm đó, Tứ vị thánh nương đã ứng mộng phù trợ, giúp nhà vua Trần Anh Tông đánh thắng giặc Chiêm Thành; sau đó được vua phong làm Đại kiền quốc gia Nam Hải Tứ vị thánh nương.
Các vị vua sau này như vua Lê Thánh Tông, vua Quang Trung khi đi đánh trận đều qua đền Cờn lập đàn tế lễ, cầu xin Tứ vị thánh nương phù hộ cho thắng trận.
Vào thế kỷ 15, Đạo Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ gắn với Thánh Mẫu Liễu Hạnh ra đời. Đạo Mẫu là một trong những tín ngưỡng Thần Đạo Việt Nam đã dung hòa nhiều yếu tố của Phật giáo, Đạo giáo (tôn giáo ngoại nhập) và tín ngưỡng của các vùng miền, nên Hệ thống thần linh trong Đạo Mẫu rất đông đảo, song được phân thành các cấp bậc thờ tự: Hàng Phật, Thánh; Tam tòa Thánh Mẫu; Hàng Quan; Hàng Chầu bà; Hàng ông Hoàng; Hàng Cô, Hàng Cậu....Các thần linh Tứ phủ có nguồn gốc không chỉ là người Kinh mà còn thuộc các dân tộc ít người như Tày, Nùng, Dao, Champa, Khmer, Hoa…
Đền Cờn sau này trở thành đền Mẫu. Hàng Chầu bà được thờ tại đây là Đại kiền quốc gia Nam Hải Tứ vị thánh nương. Vua Tống Đế Bính được thờ vào hàng ông Hoàng, là ông Hoàng chín (còn gọi là ông Hoàng chín Cờn) cai quản vùng biển. Đền Cờn là một trong 4 ngôi đền thiêng ở tỉnh Nghệ An: “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”.
Đền Mẫu tại Hưng Yên được xây dựng vào năm cuối thế kỷ 13 bởi quan Thái giám họ Du, vương triều nhà Nam Tống. Khi nhà Nguyên diệt nhà Tống, ông tị nạn sang Phố Hiến, Đại Việt. Quan Thái giám họ Du là bậc hiền tài, giàu lòng nhân nghĩa; có công lập nên làng Hoa Dương; truyền dạy dân nghề thủ công, trồng dâu nuôi tằm, đánh cá. Ông góp phần thu hút người Hoa đến Phố Hiến buôn bán, lập nghiệp. Khi ông mất, người dân tôn là Thành hoàng làng Hoa Dương. Lăng mộ của ông hiện nằm phía sau đình Hiến hay đình Hoa Dương, tại đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thành phố Hưng Yên.
Truyền thuyết cho rằng, một hôm Thái giám họ Du được Thái hậu Dương Nguyệt Quả báo mộng về đền Cờn, Nghệ An. Ông tìm đường đến thăm và sau đó trở về Phố Hiến lập đền thờ Tứ vị thánh nương để người dân gốc Nam Tống có nơi tưởng nhớ về quê hương. Khi đền dựng xong, người Hoa, người Việt đến thắp hương, cầu đảo mọi việc, đặc biệt là chuyện giao thương trên sông, biển, đều rất linh ứng.
Đền Mẫu tại Hưng Yên qua các triều đại đều được trùng tu, tôn tạo.
Đền Mẫu ngày nay tọa lạc trên một khu đất rộng 3000m2, bố cục theo hướng Nam. Phía Tây là hồ Bán Nguyệt, xa hơn một chút là đê sông Hồng.
Kiến trúc của đền ngày nay mang phong cách thời Nguyễn qua lần trùng tu vào năm 1896, theo kiểu đền thờ Mẫu Tam Phủ, bao gồm các hạng mục: Nghi môn, Tiền tế, Trung đường, Hậu cung và các công trình phụ trợ thường có trong hệ thống đền Mẫu:
Nghi môn
Nghi môn của đền Mẫu được xây dựng theo kiến trúc kiểu chồng diêm, gồm 3 khối cổng.
Khối cổng giữa rộng, lớn, 2 tầng mái, 8 mái, cửa xây vòm cuốn, trên có bức đại tự: “Dương Thiên Hậu – Tống Triều” và bức đại tự được ghép bằng các mảnh gốm lam, nét điển hình của kiến trúc thời Nguyễn: “Thiên Hạ mẫu nghi”. Phía trước cổng chính có hai trụ biểu; đỉnh trụ trang trí tứ phượng, thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối, đế trụ thắt dạng cổ bồng. Hai khối cổng hai bên nhỏ, thấp, 2 tầng mái, 8 mái, cửa xây vòm cuốn, trên cũng các bức đại tự. Hai bên cổng phụ có trụ biểu, đỉnh trụ trang trí con nghê chầu, thân và đế trụ như trụ biểu phía trước khối cổng chính.
Giữa của khối cổng chính và cổng phụ có vòm miếu nhỏ với mái che 4 mái, bên trong đặt bát hương thờ.
Sau Nghi môn là sân đền. Trong sân có ba cây đa, sanh, si cổ thụ, khoảng 800 năm tuổi, được cho là một trong những cây đa cổ nhất vùng Hạ châu thổ Bắc Bộ.

Nghi môn đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên
Tiền tế
Qua sân đền là tòa Tiền tế. Công trình như một tòa Phương đình rộng 3 gian, kiến trúc kiểu chồng diêm, 2 tầng 8 mái; 4 phía không có tường bao.
Hai bên Tiền tế là điện Lưu Ly và cung Quảng Hàn.

Phối cảnh tòa Tiền tế, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên

Bên trong tòa Tiền tế, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên

Cung Quảng Hàn bên phải tòa Tiền tế, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên

Điện Lưu Ly bên phải tòa Tiền tế, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên
Trung đường và Hậu cung
Trung đường gồm 3 gian.
Hậu cung 5 gian, là nơi đặt tượng thờ Thánh mẫu Thái hậu Dương Nguyệt Quả và người hầu.
Các công trình trong đền thờ đều được làm bằng gỗ lim, kết cấu các bộ vì kiểu chồng giường giá chiêng, chạm khắc hoa văn tinh xảo với nhiều đề tài như: Tứ linh, Tứ quý, hoa dây, hổ phù, chữ thọ....

Mặt trước tòa Trung đường, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên


Nội thất tòa Trung đường, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên

Ban thờ bên trong tòa Trung đường, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên

Trang trí ban thờ tại Hậu cung, đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên

Khám thờ đặt tượng Thánh mẫu Dương Nguyệt Quả tại Hậu cung đền Mẫu, Phố Hiến, Hưng Yên
Đền Mẫu còn bảo lưu được nhiều di vật có giá trị như: bộ long sàng, long kỷ, cỗ kiệu bát cống, thất cống thời Hậu Lê; đôi lọ lục bình men rạn thời Nguyễn; 15 đạo sắc phong từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn...
Hàng năm, lễ hội đền Mẫu diễn ra từ ngày 10 đến 15 tháng 3 âm lịch, nhằm tưởng nhớ ngày mất của Thánh mẫu Thái hậu Dương Nguyệt Quả.
Đền Mẫu, Phố Hiến là một minh chứng cho sức mạnh của Thần đạo Việt Nam, tiêu biểu là đạo Mẫu, trong việc thu hút và kết nối các đức tin của nhiều cộng đồng dân tộc khác nhau trên đất Việt.
Đền Thiên Hậu
Đền Thiên Hậu có tên chữ là Thiên Hậu cung, tọa lạc trên phố Bắc Hòa, trung tâm của Phố Hiến xưa, nay là đường Trưng Trắc, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên.
Đền thờ bà Lâm Tức Mặc, người làng Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Bà có lòng nhân đức cứu giúp dân lành, được tôn vinh là thần Biển. Người dân nhiều nơi lập đền, mở phủ để tôn thờ. Người Phúc Kiến khi định cư ở đâu, thì ở đó lập đền thờ Bà.
Đền Thiên Hậu được khởi dựng vào cuối thế kỷ 16 nửa đầu thế kỷ 17, do những người gốc Hoa tại Phố Hiến xây dựng. Theo truyền thuyết, những người Hoa tại Phố Hiến tổ chức quyên góp vật liệu từ những người thân ở Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và vận chuyển bằng đường biển, sông đến đây để dựng đền.
Tại Phố Hiến còn có một nơi nữa thờ Bà Lâm Tức Mặc là đền Thiên Hậu, cạnh Đông Đô Quảng hội, nằm trên đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thành phố Hưng Yên.
Theo thời gian, việc thờ Bà, một vị thần theo tín ngưỡng người Hoa đã chuyển hóa thành thờ Mẫu Tam phủ của Thần đạo Việt Nam, được cả người Hoa và người Việt tôn sùng.
Đền được trùng tu nhiều lần vào thế kỷ 19, 20.
Đền Thiên Hậu ngày nay nằm trên một khu đất rộng 1250m2, mặt tiền quay về hướng Nam, là sự kết hợp giữa kiến trúc Hoa Nam và kiến trúc đền vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Đền gồm các hạng mục công trình: Nghi môn ngoại, Nghi môn nội, Tả vu, Hữu vu, Tiền đường và Hậu đường.

Phối cảnh tổng thể đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên
Nghi môn ngoại
Nghi môn ngoại gồm ba cổng xây gạch.
Cổng chính giữa có quy mô lớn với 4 mái xây trên hai trụ gạch. được lợp bằng ngói âm đương; bờ nóc đắp cao, chạy dài ra hai đầu rồi uốn cong vút lên; trên bờ nóc đắp trang trí hình hoa lá mang đặc điểm của nghệ thuật kiến trúc Trung Hoa.
Hai Cổng phụ nhỏ hơn nằm cách xa Cổng chính và nối liền với Cổng chính bằng hệ thống tường rào gạch hoa bằng sứ men ngọc với nhiều dạng hoa văn như chữ thọ, chữ vạn, hoa cúc.

Nghi môn ngoại, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên
Nghi môn nội
Nghi môn nội là một tòa nhà 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái, lợp ngói ống. Nghi môn nội có 3 cửa theo kiểu bức bàn, mỗi cửa hai cánh. Trên cánh cửa có khắc hình quan văn võ và người theo hầu, được tô sơn với màu sắc rực rỡ. Đây là một trong những tác phẩm điêu khắc gỗ lớn nhất mang nét văn hóa của người Hoa tại Phố Hiến.
Phía trên cửa chính giữa là bức đại tự "Thiên Hậu Cung".
Phía trước Nghi môn nội có đôi nghê chầu bằng đá hoa cương, con đực ngậm ngọc, con cái ôm con bú, rất sinh động. Qua Nghi nội là đến sân đền.

Nghi môn nội, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Sơ đồ mặt cắt ngang Nghi môn nội, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên
Tiền đường
Hai bên sân đền là hai tòa Tả vu và Hữu vu. Dãy Tả vu là nơi thờ Tứ phủ Chầu bà; Dãy Hữu vu là nơi thờ Tam tòa Thánh mẫu (theo Đạo Mẫu Tam phủ).
Tòa Tiền đường nằm chính giữa trục sân đền, theo kiểu chồng diêm, mái 2 tầng, 8 mái, ngói ống, không có tường bao xung quanh như tòa Phương đình. Đường bờ nóc trang trí tượng đức Phật ngồi trên toà sen, xung quanh đông người qua lại. Toàn bộ hệ thống vì được trang trí bởi các bức phù điêu theo các tích truyện Trung Quốc như: Tam Quốc, Tây Du Ký… Ngoài ra, ở đây còn được trang trí với các đề tài cỏ cây, hoa lá, muông thú...

Sơ đồ mặt trước tòa Tiền đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Phối cảnh tòa Tiền đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Trang trí kết cấu mái tòa Tiền đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Mặt cắt tòa Tả vu, Hữu vu, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên
Hậu đường
Tòa Hậu đường nằm song song với tòa Bái đường, gồm 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái, ngói ống.
Bên trong tòa Hậu đường, ngoài khám thờ Thánh Mẫu Lâm Tức Mặc, còn có các khám nhỏ thờ gia đình của Bà và các dòng họ người Hoa đã có công dựng đền.
Thông thường trong các ngôi đền Việt Nam, đầu dư thường chạm rồng, thì tại đây, đầu dư được chạm thêm cả hình cá chép hóa rồng, người....

Sơ đồ mặt cắt ngang tòa Tiền đường và Hậu đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Trang trí mặt trước tòa Hậu đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Ban thờ bên trong tòa Hậu đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Trang trí đầu dư tại kết cấu mái tòa Hậu đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Kết cấu và các bức chạm khắc trên mái, tòa Hậu đường, đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên

Khám thờ Thánh Mẫu Lâm Tức Mặc trong Hậu cung đền Thiên Hậu, Phố Hiến, Hưng Yên
Trong đền Thiên Hậu, ngoài hệ thống tượng thờ, tại đây còn lưu giữ các đồ tế tự có nguồn gốc Trung Hoa như bộ ngũ sự, bát hương, độc bình, bát bảo, đèn lồng ...
Hàng năm, đền Thiên Hậu mở hội vào ngày 23/3 và ngày 9/9 âm lịch để kỷ niệm ngày sinh và ngày hoá của Thánh Mẫu Lâm Tức Mặc.
Đền Bà Chúa Kho
Đền Bà Chúa Kho có tên chữ là Thương Tỉnh linh từ hay đền Gốc Sanh.
Đền tọa lạc trên một thế đất cao ráo, thuộc phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên.
Đền thờ bà Lê Bạch Nương còn gọi là bà Chúa Kho.
Tại vùng Đồng bằng Bắc Bộ có nhiều sự tích về các bà Chúa Kho, có vị là nhân vật lịch sử, có vị nửa lịch sử nửa huyền thoại và có vị gần như huyền thoại.
Theo thần tích, bà Chúa Kho tại Phố Hiến, hay bà Chúa Kho tại Vĩnh Ty đồn (tên gọi trước kia của Phố Hiến).
tên là Lê Bạch Nương, thuộc dòng dõi hoàng tộc nhà Hậu Lê, giỏi văn chương, tinh thông võ nghệ. Bà được triều đình sai phụ trách kho ngân khố Quốc gia quan trọng đặt tại Phố Hiến. Bấy giờ có nạn giặc dữ, bà Bạch Nương đã cùng quân sĩ chiến đấu bảo vệ ngân khố quốc gia và đã hy sinh khi tuổi đời chưa đến ba mươi.
Sau khi Bà mất, dân địa phương đã lập đền thờ. Nhà vua ban sắc và tặng phong mỹ tự cho ngôi đền là “Thiên phủ chư tích” (Nơi tích trữ ngân khố).
Đền Bà Chúa Kho được xây dựng vào thời vua Lê Hy Tông (hoàng đế thứ 21 nhà Hậu Lê, trị vì năm 1675- 1705 và có quy mô rộng lớn.
Cuối thế kỷ 19, ngôi đền được di chuyển ra vị trí hiện nay với quy mô nhỏ hơn.
Đền Bà Chúa Kho gồm Nghi môn, Tiền đường và Hậu cung.
Nghi môn
Nghi môn là một cổng nhỏ, phía trên có mái che dạng 4 mái. Hai bên cổng có hai cây đa, cây sanh cổ thụ.

Nghi môn đền Bà Chúa Kho, Phố Hiến, Hưng Yên
Tiền đường và Hậu cung
Tòa Tiền đường 3 gian và Hậu cung 3 gian, đặt song song với nhau.
Trong Hậu cung có khám thờ đặt tượng Chúa Mẫu Liễu Hạnh. Phía dưới là khám thờ Bà Chúa kho.
Bên trong đền trang trí nhiều mảng chạm khác các đề tài dân gian quen thuộc như Tứ linh, Tứ quý, hoa lá...
Đền Bà Chúa Kho còn bảo lưu được nhiều hiện vật, đồ thờ có giá trị như 2 đạo sắc phong thời Nguyễn, trâm bạc, lục bình sứ,… đặc biệt là bộ tượng đồng được tạo tác vào thế kỷ 17.

Tòa Tiền đường, đền Bà Chúa Kho, Phố Hiến, Hưng Yên


Ban thờ Bà Chúa Kho, tại Hậu cung đền Bà Chúa Kho, Phố Hiến, Hưng Yên
Hàng năm, vào ngày mồng 01 tháng 3 âm lịch, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội đền Bà Chúa Kho.
Võ Miếu
Võ Miếu được xây dựng tại phố Bắc Hòa xưa, nay thuộc đường Trưng Trắc, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên. Đây là một trong những di tích tiêu biểu của người Hoa hiện còn lưu giữ được tại Phố Hiến.
Võ Miếu thờ Quan Thánh Đế Quân, dân gian gọi là Quan Công hay Quan Vũ.
Quan Vũ tự là Vân Trường, là một vị tướng văn võ song toàn thời Tam Quốc, Trung Quốc (năm 220- 180). Quan Vũ cao lớn, mặt đỏ như gấc, oai phong lẫm liệt, là người vũ dũng, hào hiệp, hay bảo vệ kẻ yếu.
Quan Vũ cùng với Lưu Bị, Trương Phi kết nghĩa huynh đệ và có công lớn trong việc thành lập nhà Thục Hán (tồn tại 221 – 263). Đối với người Hoa, ông là hiện thân của trung nghĩa và là thánh nhân phù hộ cho hơn 20 nghề truyền thống, nên được người dân thờ phụng ở nhiều nơi.
Võ Miếu là một trong số di tích của người Hoa tại Phố Hiến.
Công trình được xây dựng vào thế kỷ 16-17, được tôn tạo vào 1898, thời Nguyễn, mang đậm kiến trúc Phúc Kiến Trung Quốc đan xen kiến trúc Việt.
Đền gồm Nghi môn, Chính điện và các công trình phụ trợ:
Nghi môn
Nghi môn Võ Miếu là một tòa nhà 3 gian, đầu hồi bít đốc, 2 mái. Tường xây gạch không trát vữa.

Nghi môn Võ Miếu, Phố Hiến, Hưng Yên
Chính điện
Chính điện Võ miếu có bố cục hình ”chữ công” hay chữ H, gồm Tiền tế, Thiêu Hương và Hậu điện.
Tiền tế 3 gian, Thiêu hương 1 gian, Hậu điện 3 gian với kết cấu mái theo kiểu vì giá chiêng. Trên các cấu kiện kiến trúc được chạm khắc nhiều đề tài theo kiểu kiến trúc nghệ thuật Trung Hoa đan xen với đề tài dân gian Việt.
Hiện nay, Võ Miếu còn lưu giữ nhiều đồ thờ tự có giá trị về mặt lịch sử văn hóa, nghệ thuật như: Tượng Quan Vũ, bộ tam sự, sập chân quỳ dạ cá, bát tô thời Minh, bát hương thời Lê, hương án đá,…

Bên trong tòa Tiền tế, Võ Miếu, Phố Hiến, Hưng Yên

Bên trong Hậu điện, Võ Miếu, Phố Hiến, Hưng Yên

Ban thờ Quan Thánh Đế Quân, Võ Miếu, Phố Hiến, Hưng Yên
Hàng năm, vào ngày 13 tháng 5 âm lịch nhân dân địa phương tổ chức lễ hội kỷ niệm ngày sinh của đức Thánh.
Đền Cửu Thiên Huyền Nữ
Đền Cửu Thiên Huyền Nữ còn gọi là đền Bắc Hòa hay Cửu Thiên cung tọa lạc trên phố Bắc Hòa xưa, nay thuộc phường Lê Lợi, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
Đền thờ Đức Thánh Cửu Thiên Huyền Nữ Chân Quân (còn được gọi là Oa Huỳnh, Huyền Nữ). Theo truyền thuyết, Bà là nữ thần chủ về chiến tranh và sự trường thọ trong Thần đạo Trung Hoa. Tại Trung Hoa, đền thờ Bà được người dân dựng ở nhiều nơi.
Vào thế kỷ 17, một số người gốc Hoa sinh sống tại Phố Hiến đã dựng đền để thờ Bà.
Ngoài ra, đền còn phối thờ các vị Thần đạo Việt Nam như Long mạch Thổ thần, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Theo thời gian, việc thờ Bà, một vị thần theo tín ngưỡng người Hoa đã chuyển hóa thành thờ Mẫu Tam phủ của Thần đạo Việt Nam.
Đền Cửu Thiên Huyền Nữ được trùng tu, tôn tạo vào năm 1937 thời Nguyễn. Đền không có Nghi môn, chỉ gồm 2 trụ thấp, đánh dấu giới hạn của đền với vỉa hè đường. Đền gồm Chính điện và các công trình phụ trợ thường có trong hệ thống đền Mẫu:
Chính điện
Chính điện có mặt bằng kiểu ”chữ công” gồm tòa Tiền tế, Thiêu Hương và Hậu đường.
Tòa Tiền tế 3 gian được xây dựng theo kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, liên kết bộ vì theo kiểu kèo cầu quá giang trốn cột khá đơn giản.
Tòa Thiêu Hương 1 gian, được xây dựng theo kiểu cuốn vòm - là một trong những kiểu kiến trúc đặc thù của các di tích thuộc quần thể khu di tích Phố Hiến. Ở vị trí cao nhất là khám thờ các vị thần theo Đạo Mẫu Tam phủ, gồm: Tam tòa Thánh mẫu (Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng ngàn và Mẫu Thoải), phía dưới ban thờ Ngũ vị quan lớn...
Hậu cung 3 gian, bên trong đặt khám thờ đức Cửu Thiên Huyền Nữ.

Tòa Tiền tế, đền Cửu Thiên Huyền Nữ, Phố Hiến, Hưng Yên

Bên trong tòa Tiền tế, đền Cửu Thiên Huyền Nữ, Phố Hiến, Hưng Yên

Ban thờ thánh Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ, đền Cửu Thiên Huyền Nữ, Phố Hiến, Hưng Yên
Hằng năm, đền Cửu Thiên Huyền Nữ diễn ra lễ hội vào các ngày mồng 03 tháng 3, ngày 20 tháng 8 và ngày mồng 09 tháng 9 âm lịch để tưởng nhớ đến công lao của các vị thần được tôn thờ.
Đông Đô Quảng hội – Thiên Hậu cung
Đông Đô Quảng hội và Thiên Hậu cung nằm tại trung tâm Phố Hiến Hạ xưa, nay thuộc đường Phố Hiến, phường Hồng Châu.
Đông Đô Quảng hội là nơi hội họp (tương tự như ngôi đình) của các thương nhân nước ngoài, chủ yếu là người Hoa, đồng thời đó cũng là nơi thờ Tam thánh: Thần Thái Y (Thần làm nghề thuốc); Thần Hoa Quang (Thần dạy dân làm các nghề thủ công); Thần Nông (Thần dạy dân làm ruộng, trồng trọt, chăn nuôi).
Thiên Hậu cung nằm bên trái Đông Đô Quảng hội. Đây là ngôi đền thờ đức Thánh mẫu Thượng Thiên hay Đức bà Lâm Tức Mặc, một vị thần Biển của người dân Phúc Kiến. Tại Phố Hiến còn có một nơi nữa thờ Bà là đền Thiên Hậu, tọa lạc trên phố Bắc Hòa - trung tâm của Phố Hiến xưa, nay là đường Trưng Trắc, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên.
Đông Đô Quảng Hội và Thiên Hậu Cung được dựng vào năm 1590. Hai cụm công trình có cấu trúc tương tự như nhau với phong cách kiến trúc kết hợp giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Tương tự như quá trình xây dựng đền Thiên Hậu, Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu cung do những người Hoa tại Phố Hiến tổ chức quyên góp vật liệu từ những người thân ở Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và vận chuyển bằng đường biển, sông đến đây để xây dựng công trình.
Đông Đô Quảng Hội có bố cục quay về hướng Nam, gồm: Nghi môn và Chính điện.
Nghi môn
Nghi môn là một tòa 3 gian, 2 dĩ, dài 11,5m, rộng 5,7m, cao 3,5m, đầu hồi bít đốc, 4 mái.
Kết cấu bộ vì theo kiểu giá chiêng. Cửa lớn có hai cánh được viền khung, mỗi cánh rộng 1,5m, cao 2,5m, phía trên có bức đại tự "Đông Đô Quảng Hội".

Nghi môn Đông Đô Quảng Hội (bên trái ảnh) và Thiên Hậu Cung (bên phải ảnh), Phố Hiến, Hưng Yên

Mặt cắt ngang Nghi môn Đông Đô Quảng Hội, Phố Hiến, Hưng Yên
Chính điện
Sau Nghi môn là một sân gạch phía trước Chính điện.
Chính điện có kiến trúc kiểu “chữ công” hay chữ H, gồm tòa Tiền tế, Thiêu hương và Hậu cung.
Tòa Tiền tế hay Hội quán 3 gian. Nơi đây vốn là nơi tụ họp, gặp mặt của các chủ buôn và các dòng họ người Hoa ở Phố Hiến để bàn về các việc liên quan.
Thiêu Hương 1 gian và Hậu cung 3 gian; vì kèo theo kiểu chồng rường, giá chiêng. Trên các kết cấu gỗ chạm khắc Tứ linh, Tứ quý và các linh vật, hoa lá, thể hiện ước vọng cầu lộc, cầu tài, cầu phúc của người dân.
Phía trên cửa chính Hậu cung là đại tự được đắp nổi: "Tam Thánh Đế". Bên ngoài hiên còn có hai bia đá. Nội dung trên bia ghi lại việc trùng tu, tôn tạo Hội quán. Hậu cung là nơi thờ Tam thánh.
Liền kề với Đông Đô Quảng Hội là Thiên Hậu cung. Nhìn từ bên ngoài là hai di tích riêng biệt, vì đều có Nghi môn riêng. Song, khi vào bên trong, thì hai công trình này lại được thông nhau, tạo thành một tổng thể thống nhất.

Sân trong Đông Đô Quảng Hội - Thiên Hậu Cung, Phố Hiến, Hưng Yên
Đông Đô Quảng Hội - Thiên Hậu cung là nơi còn lưu giữ nhiều đồ tế tự quý như: bát hương, bia đá, bát men lam ngọc đèn đồng, bộ ngũ sự bằng đồng thau… cùng hệ thống câu đối, đại tự, ngai thờ có giá trị lịch sử và mỹ thuật cao.
Ngoài ra, tại đây còn bảo tồn được 72 thánh tích và 32 sắc phong của các triều đại.
Hằng năm, lễ dâng hương, lễ tế và lễ hội được tổ chức tại Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu Cung vào các ngày 23/3 âm lịch (ngày sinh), 9/9 âm lịch (ngày hóa) của thánh Mẫu Lâm Tức Mặc và 10/10 âm lịch (ngày lễ đản của Tam tòa Thánh Mẫu.
Vào giai đoạn thế kỷ 15- 17, Khu di tích Phố Hiến, Hưng Yên là địa điểm nổi bật trong lịch sử phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa tại vùng Hạ châu thổ Bắc Bộ. Các công trình kiến trúc còn bảo tồn tại Phố Hiến có giá trị tiêu biểu trong quá trình phát triển kiến trúc, nghệ thuật Việt Nam.
Ngày nay ta mới chỉ thấy rõ vị thế Phố Hiến về kinh tế trong quá khứ hay qua một vài công trình di tích lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng còn sót lại, mà chưa hiểu rõ rằng: Nơi đây bắt đầu và đạt tới tầm quốc tế nhờ kết nối giao thương. Song theo thời gian hàng trăm năm, Phố Hiến cũng đã trở thành địa danh về kết nối văn hóa hay "vùng đất lành" tầm quốc tế.
Khu di tích Phố Hiến không chỉ là sự bảo tồn, tôn tạo 16 (hay nhiều hơn) công trình di tích đơn lẻ. Sẽ đến một ngày, tổng thể Khu phố cổ Phố Hiến được phục dựng (có thể như Khu phố cổ Hội An) và mang lại giá trị văn hóa cốt lõi, đặc hữu cho tỉnh Hưng Yên trong thời Hội nhập mà thiên hạ vẫn gọi là thời Cách mạng công nghiệp 4.0
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_qu%E1%BB%91c_gia_%C4%91%
E1%BA%B7c_bi%E1%BB%87t
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%91_Hi%E1%BA%BFn
http://phohienplus.blogspot.com/2015/05/ngoai-thuong-pho-hien-ky-17-18.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_%C4%90%C3%B4_Qu%E1%
BA%A3ng_H%E1%BB%99i
http://thanhphohungyen.gov.vn/16-di-tich-trong-khu-di-tich-quoc-gia-dac-biet-
pho-hien-c211347.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_mi%E1%BA%BFu_X%C3%ADch_%
C4%90%E1%BA%B1ng
https://vtv.vn/video/kham-pha-viet-nam-van-mieu-xich-dang-320950.htm
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_B%E1%BA%A1ch_H%E1%BB%95
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_M%C3%A2y
http://hungyentv.vn/van-hoa-du-lich/den-tran-den-mau-va-nhung-gia-tri-
truyen-thong-cua-pho-hien
http://baohungyen.vn/dat-va-nguoi-xu-nhan/di-tich-le-hoi/200610/den-thien-hau-111326/
http://phohienplus.blogspot.com/2015/05/en-thien-hau.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_B%C3%A0_ch%C3%BAa_
Kho_(H%C6%B0ng_Y%C3%AAn)
- Xem thêm Chùa thuộc Khu di tích Phố Hiến, Hưng Yên tại đây
Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|