Thông tin chung:
Công trình: Quần thể di tích tại Hampi (Group of Monuments at Hampi)
Địa điểm: Quận Bellary, bang Karnataka, Ấn Độ (N15 18 51.984 E76 28 18.012)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản 4.187,24 ha ; diện tích vùng đệm 19.453,62 ha
Năm hình thành: Thế kỷ 14
Giá trị: Di sản thế giới (1986, sửa đổi ranh giới nhỏ vào năm 2012; hạng mục i ; iii ; iv)
Ấn Độ (India) là một quốc gia tại Nam Á, có diện tích 3.287.263 km3 (đứng thứ 7 trên thế giới); dân số khoảng 1324 triệu người (năm 2016).
Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương tại phía Nam, biển Ả Rập phía Tây Nam, vịnh Bengal phía Đông Nam, giáp Pakistan ở phía Tây; với Trung Quốc, Nepal, Bhutan ở phía Đông Bắc; Myanmar và Bangladesh ở phía Đông. Trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ lân cận với Sri Lanka và Maldives; Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ có chung đường biên giới trên biển với Thái Lan và Indonesia.
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện nền văn minh lưu vực sông Ấn (Indus Valley Civilisation) thời Cổ đại, có các tuyến đường buôn bán mang tính lịch sử cùng với những đế quốc rộng lớn, giàu có về thương mại và văn hóa.
Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), tại đây đã xuất hiện các đô thị lớn với số dân hàng vạn người, được quy hoạch với hệ thống thoát nước, cấp nước phức tạp, nhà gạch nung, các kỹ thuật mới trong hoạt động thủ công mỹ nghệ và luyện kim…
Sự phân tầng xã hội, dựa trên đẳng cấp, xuất hiện trong thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Sự tập quyền chính trị sớm nhất diễn ra dưới thời Đế chế Maurya (Maurya Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 322 - 187 TCN); Đế chế Shunga (Shunga Empire, tồn tại trong giai đoạn 187- 78 TCN) và Đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 319 đến 550 sau Công nguyên).
Các vương quốc trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 3 TCN đến thế kỷ thứ 13 sau Công nguyên tại Tiểu lục địa Ấn Độ (Middle kingdoms of India) có ảnh hưởng to lớn đến nền văn hóa của khu vực xung quanh, lan truyền đến tận Đông Nam Á.
Đây cũng là nơi bắt nguồn của 4 tôn giáo nội sinh lớn:
Ấn Độ giáo (Hinduism) là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, xuất phát từ khu vực Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh), là sự hợp nhất hay tổng hợp các nền văn minh truyền thống Ấn Độ khác nhau và không có người sáng lập; hình thành từ năm 500 TCN đến 300 sau Công nguyên, sau khi kết thúc thời kỳ Vệ Đà (Vedic period, năm 1500 – 500 TCN), phát triển mạnh trong thời Trung cổ, cùng với sự suy tàn Phật giáo ở Ấn Độ. Ấn Độ giáo bao gồm các nhóm tôn giáo khác biệt nhau về triết lý, song được liên kết bởi các khái niệm chung, các nghi thức, vũ trụ học, tài nguyên văn bản Hindu (luận về thần học, triết lý, thần thoại, kinh Vệ Đà, Yoga, nghi lễ, cách thức xây dựng đền thờ) và tập tục hành hương đến các địa điểm linh thiêng. Bốn giáo phái lớn nhất của Ấn Độ giáo là Vaishnavism, Shaivism, Shaktism và Smartism.
Phật giáo (Buddhism) do Đức Thích Ca Mâu Ni (Siddhartha Gautama/ Tất đạt đa Cồ đàm, năm 624 TCN – 534 TCN) sáng lập. Sau này, Phật giáo phân hóa thành nhiều nhánh: Phật giáo Nguyên thủy (Nam Tông, Thượng tọa, Tiểu thừa); Phật giáo Đại thừa (Bắc tông, Đại chúng); Phật giáo Chân ngôn (Tây Tạng, Mật tông, Kim cương thừa).
Jaina giáo (Jainism) là một trong những tôn giáo lâu đời trên thế giới, do Đức Mahavir (năm 599 trước TCN – 527 TCN) sáng lập ra tại Bắc Ấn Độ, gần như là cùng thời với Phật giáo, với triết lý và phương thức thực hành dựa vào nỗ lực bản thân để đến cõi Niết Bàn.
Sikh giáo (Sikhism) do Đức Guru Nanak (năm 1469 - 1539) sáng lập vào thế kỷ 15 tại vùng Punjab, giữa Pakistan và Ấn Độ.
Ngoài ra, tại đây còn xuất hiện các tôn giáo ngoại nhập như: Do Thái giáo (Judaism), Bái Hỏa giáo (là tôn giáo do nhà tiên tri Zoroaster sáng lập vào khoảng cuối thế kỷ 7 TCN tại miền Đông Đế quốc Ba Tư cổ đại), Cơ Đốc giáo (Christianity) và Hồi giáo (Islamic). Các tôn giáo này được truyền đến Ấn Độ vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, bổ sung vào văn hóa đa dạng của khu vực.
Vào thời Trung cổ, phần lớn miền Bắc Ấn Độ thuộc Vương quốc Hồi giáo Delhi (Delhi Sultanate), kéo dài trong khoảng 320 năm (1206- 1526). Trong giai đoạn này, sự kết hợp giữa văn minh Ấn Độ với văn minh Hồi giáo, sự hội nhập giữa tiểu lục địa Ấn Độ với vùng lục địa Phi – Á – Âu (Afro-Eurasia) đã có một tác động to lớn lên văn hóa và xã hội Ấn Độ. Khi Delhi thành thủ đô Hồi giáo vào năm 1193, tại đây đã hình thành được nền kiến trúc Hồi giáo - Ấn Độ (Indo-Islamic architecture, nguồn gốc từ Iran), đạt được sự tăng trưởng dân số và kinh tế cùng với việc xuất hiện ngôn ngữ Hindi-Urdu (Hindustani language). Vương quốc Hồi giáo Delhi cũng có vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi các cuộc xâm lăng của Đế quốc Mông Cổ vào thế kỷ 13, 14.
Vào thời Trung cổ, miền Nam Ấn Độ phân thành nhiều vương quốc nhỏ, ví dụ như :
Vương quốc Vijayanagara (Vijayanagara Empire): nằm trên Cao nguyên Deccan (Deccan Plateau), miền nam Ấn Độ, kinh đô là thành phố Vijayanagara (bang Karnataka hiện tại). Triều đại này được thành lập năm 1336, kéo dài đến năm 1646. Vijayanagara đã trở thành một thành trì của Ấn Độ giáo trong giai đoạn người Hồi giáo làm bá chủ ở miền bắc Ấn Độ, nổi tiếng vì bảo trợ cho việc học chữ Phạn. Đây là vương quốc giàu có nhờ buôn bán gia vị và sản xuất hàng dệt vải bông.
Vương quốc Đông Ganga (Eastern Ganga dynasty): thuộc vùng Kalinga (bao gồm cả bang Odisha hiện tại) là khu vực ven biển phía Đông, giữa sông Mahanadi và sông Godavari với kinh đô là Dantapura, sau đó được chuyển đến Kalinganagara (Mukhalingam) và cuối cùng đến Kataka (Cuttack). Triều đại này tồn tại vào thế kỷ 11- đầu thế kỷ 15, được đánh giá là vương triều bảo trợ tuyệt vời cho tôn giáo và nghệ thuật. Nhiều ngôi đền của thời kỳ Đông Ganga được xếp hạng là những kiệt tác của kiến trúc Ấn Độ giáo. Người cai trị đáng chú ý của triều đại Đông Ganga là vua Narasingha Deva I, giai đoạn năm 1238-1264. Ông là một chiến binh mạnh mẽ, đã tổ chức đánh bại nhiều đợt tấn công của Vương quốc Hồi giáo Delhi và thậm chí còn truy đuổi kẻ thù. Vua Narasingha Deva I cho xây dựng Đền Mặt trời tại Konark để kỷ niệm những chiến thắng của mình đối với người Hồi giáo và nhiều ngôi đền, pháo đài khác.
Vào thế kỷ 16, Đế quốc Mughal (Mughal Empire, năm 1526 – 1857) hình thành, chinh phục các vương quốc nhỏ, mở rộng lãnh thổ ra gần như toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ và một phần của Afghanistan với số dân vào giai đoạn cực thịnh lên đến 150 triệu người. Đế quốc Mughal đạt đến đỉnh cao vinh quang trong triều đại của Shah Jahan (trị vì năm 1628 đến 1658) và ông được coi là một trong những hoàng đế Mughal vĩ đại nhất. Trong giai đoạn này, kiến trúc Mughal đạt đến đỉnh cao với các công trinh nổi tiếng như: Taj Mahal và Moti Masjid tại Agra, Pháo đài Đỏ (Red Fort), Jama Masjid, Delhi và Pháo đài Lahore (Lahore Fort).
Tiểu lục địa Ấn Độ dần bị Anh thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ 18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh từ giữa thế kỷ 19.
Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947, sau cuộc đấu tranh giành độc lập do Mahatma Gandhi (năm 1869 – 1948) lãnh đạo.
Ngày nay, Ấn Độ là một liên bang bao gồm 29 bang và 7 vùng lãnh thổ thuộc liên bang. Dưới bang là các đơn vị hành chính: quận (huyện, khu); phân khu và làng xã.
Karnataka là một bang miền tây nam Ấn Độ. Thủ phủ và thành phố lớn nhất là Bangalore (Bengaluru).
Tại phía đông bang Karnataka, Ấn Độ, gần thành phố hiện đại Hosapete, có một quần thể di tích nổi tiếng tại Hampi hay Hampe.
Hampi - Vijayanagara là thủ đô của Đế chế Vijayanagara (Vijayanagara Empire/ Karnata Kingdom, tồn tại năm 1336–1646). Đế chế được đặt tên theo thủ đô, nơi có tàn tích bao quanh cố đô Hampi ngày nay.
Đế chế đạt đến đỉnh cao trong thời kỳ cai trị của vua Krishna Deva Raya (trị vì năm 1509–1529), khi đội quân Vijayanagara liên tục chiến thắng và giành được các vùng lãnh thổ trước đây thuộc các tiểu vương quốc láng giềng. Nhiều công trình quan trọng tầm quốc gia đã được xây dựng trong thời kỳ trị vì của vua Krishna Deva Raya.
Bản đồ Ấn Độ và vị trí cố đô Hampi – Vijayanagara tại bang Karnataka
Bản đồ Đế chế Vijayanagara vào thế kỷ 14
Tượng vua Krishna Deva Raya, vị vua biểu tượng của Đế chế Vijayanagara
Một số đặc điểm nổi bật của Đế chế Vijayanagara :
Duy trì các biện pháp hành chính được phát triển bởi những vương quốc tiền nhiệm : Vương quốc Hoysala (Hoysala Empire, tồn tại năm 1026–1343) ; Kakatiya (Kakatiya Dynasty, tồn tại năm 1163- 1323) và Pandya (Pandya Dynasty, tồn tại năm thế kỷ 4- 3 TCN, thế kỷ 6- 10, thế kỷ 13- 14).
Tại đây có 7 bảy yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quản trị quốc gia: Nhà vua ; Bộ máy hành chính ; Phân chia lãnh thổ ; Giai tầng xã hội; Ngân khố ; Quân đội ; Đồng minh :
Nhà vua là người có thẩm quyền tối cao, được trợ giúp bởi chính phủ do thủ tướng (Mahapradhana) đứng đầu.
Các chức danh quan trọng khác trong bộ máy hành chính là bộ trưởng (Karyakartha hoặc Rayaswami) và các tướng lĩnh cấp cao (Adhikari). Các bộ trưởng đều được yêu cầu về huấn luyện quân sự. Cung điện của vua có môt ban thư ký với 72 bộ phận (Niyogas) giúp vua công việc hành chính.
Đế chế được chia thành 5 tỉnh chính (Rajya). Mỗi tỉnh dưới quyền một thống đốc (Dandanayaka/ Dandanatha), thường thuộc hoàng tộc. Một tỉnh lại được chia thành các vùng (Vishaya Vente hoặc Kottam). Dưới vùng là quận (Sime hoặc Nadu). Dưới quận là các thị trấn (Kampana hoặc Sthala). Các gia đình quý tộc, cha truyền con nối cai trị các vùng lãnh thổ tương ứng của họ và đóng thuế cho Đế chế.
Xã hội được phân thành 4 giai tầng chính : Brahmin (Bà la môn, giáo sĩ, tu sĩ, triết gia, học giả), lãnh đạo tôn giáo ; thống trị tinh thần, phụ trách về lễ nghi, cúng bái); Kshatriyas (vua, quý tộc, chiến binh), thống trị dân chúng); Vaishyas ( thương gia, nông dân, người lao động), bình dân; Shudras (tiện dân), phục vụ tầng lớp trên.
Ngân khố của Đế chế Vijayanagara chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp. Phần lớn diện tích của Đế chế là vùng đất màu mỡ, thuận tiện cho canh tác. Các vị vua ban hành chính sách về quyền sở hữu và thuế đất hợp lý nhằm khuyến khích người nông dân phát triển sản xuất. Cao lương, bông và đậu mạch trồng ở các vùng bán khô hạn, trong khi mía, lúa và lúa mì trồng phổ biến ở các vùng mưa. Lá trầu, cau và dừa là những cây cho những thu nhập đáng kể. Sản xuất bông quy mô lớn cung cấp cho ngành công nghiệp sợi, dệt sôi động của Đế chế. Các loại gia vị như nghệ, tiêu, bạch đậu khấu, gừng… được trồng ở vùng đồi núi xa và được vận chuyển đến thành phố để buôn bán.
Vijayanagara là Đế chế thu hút thương nhân đến đây định cư, qua đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh thương mại. Xuất khẩu chính của Đế chế là hạt tiêu, gừng, quế, thảo quả, đá quý và bán quý, ngọc trai, xạ hương, vải bông sứ ... Nhập khẩu đồng, thủy ngân, san hô, nghệ tây, vàng, bạc… từ Palestine, ngựa từ Ba Tư (Iran), tơ lụa từ Trung Quốc….Các cảng tại Đế chế không chỉ cung cấp nơi cập bến an toàn cho các thương nhân từ Châu Phi, Ả Rập, Biển Đỏ, Trung Quốc và Bengal, mà còn trở thành nơi đóng tàu, thuyền.
Tiền xu được đúc bởi nhà nước, ở các tỉnh và bởi các hiệp hội thương nhân. Ngoại tệ được lưu thông.
Quân đội gồm hai loại: quân đội riêng của nhà vua và quân đội của vương triều. Quân đội riêng của vua Krishna Deva Raya (trị vì năm 1509 – 1529) có tới 100.000 bộ binh, 20.000 kỵ binh và hơn 900 con voi. Toàn bộ quân đội lên đến hơn 1,1 triệu binh sĩ, có lúc tới 2 triệu binh sĩ, kể cả hải quân, là một lực lượng quân đội hùng mạnh thời bấy giờ. Vijayanagara là một trong những đế chế đầu tiên ở Ấn Độ sử dụng pháo tầm xa, loại pháo thường được điều khiển bởi các xạ thủ nước ngoài.
Các vị vua Vijayanagara theo Hindu giáo, song khoan dung với tất cả các tôn giáo và giáo phái tạo thành hệ thống các vương quốc đồng minh rộng rãi.
Sự thâm nhập của Hồi giáo vào Nam Ấn Độ bắt đầu từ thế kỷ thứ 7. Vào đầu thế kỷ 15, vua Krishna Deva Raya đã xây dựng một nhà thờ Hồi giáo cho người Hồi giáo ở Vijayanagara. Sự du nhập của Cơ đốc giáo bắt đầu từ thế kỷ thứ 8. Sự xuất hiện của người Bồ Đào Nha vào thế kỷ 15 và sau đó là sự hiện diện của người Hà Lan đã thúc đẩy sự phát triển của Cơ đốc giáo ở phía nam.
Thông qua hệ thống chữ khắc trên đá tại các bức tường của đền thờ, tri thức của Đế chế được lưu giữ và lan truyền. Ngoài ra, tri thức còn được lưu giữ bằng chữ khắc trên các tấm đồng.
Hầu hết các chữ khắc của Đế chế Vijayanagara bằng tiếng Kannada, Telugu, Tamil và một số ít bằng tiếng Phạn. Tại đây có khoảng 7000 bản khắc trên đá, một nửa trong số đó là bằng tiếng Kannada ; khoảng 300 tấm đồng chủ yếu bằng tiếng Phạn. Hiện nay, một phần các bản khắc này đã được phục hồi.
Mỹ thuật và văn học được quốc gia bảo trợ và đạt đến tầm cao thời bấy giờ với các chủ đề như thiên văn học, toán học, y học, tiểu thuyết, âm nhạc học, lịch sử và sân khấu.
Nghệ thuật và kiến trúc của Đế chế là sự kế thừa phong cách của các vương triều kỷ trước đó tại miền Trung và Nam Ấn Độ : Vương triều Chalukya (Chalukya Dynasty, tồn tại năm 543- 753); vương triều Hoysala (Hoysala Empire, tồn tại năm 1026–1343); vương triều Pandya (Pandya Dynasty, tồn tại năm thế kỷ 4- 3 TCN, thế kỷ 6- 10, thế kỷ 13- 14) và vương triều Chola (tồn tại năm 300 TCN–1279). Ngoài ra, nghệ thuật và kiến trúc Vijayanagara còn tiếp thu những phong cách mới xuất hiện từ thế kỷ 14: Phong cách Vesara (tại vùng Deccan, là sự kết hợp giữa kiến trúc đền tại Bắc Ấn và Nam Ấn); Phong cách kiến trúc Dravida (Dravidian architecture, kiến trúc đền thờ tại Nam Ấn); Phong cách kiến trúc Hồi giáo.
Nghệ thuật và kiến trúc Vijayanagara cũng có các đặc điểm riêng: Đền thờ được tạc vào khối đá nguyên khối lớn; Chạm khắc đá và những bức tranh tường trong đền được trang trí công phu.
Di sản điêu khắc, hội họa và kiến trúc của phong cách Vijayanagara đã ảnh hưởng đến sự phát triển của nghệ thuật và kiến trúc tại miền Trung và Nam Ấn Độ rất lâu sau khi Đế chế suy tàn.
Tại cố đô Hampi – Vijayanagara, một hệ thống thủy lực đã được xây dựng để dẫn nước, trữ nước và cấp nước trong suốt cả năm. Đây là hệ thống thủy lực tiến tiến nhất thời bấy giờ tại khu vực miền nam Ấn Độ, được tài trợ xây dựng bởi các cá nhân giàu có trong và ngoài nước. Ngày nay, tàn tích của các tuyến kênh dẫn nước với các cửa cống đóng mở để kiểm soát dòng nước từ sông vào các bể chứa thủy lợi vẫn còn được lưu giữ.
Di sản của Đế chế Vijayanagara trải rộng khắp miền nam Ấn Độ, nổi tiếng nhất trong số đó là nhóm di tích ở cố đô Hampi.
Hampi, thủ đô của Đế chế là một trung tâm kinh doanh thịnh vượng, một thị trường với số lượng lớn vàng và đá quý. Việc xây dựng đền đài với quy mô lớn đã cung cấp việc làm cho hàng nghìn thợ, nhà điêu khắc và các nghệ nhân lành nghề đến từ các vùng xung quanh.
Vào những năm 1500, thủ đô Hampi của Đế chế Vijayanagara là thành phố thời Trung cổ lớn thứ hai thế giới sau Bắc Kinh và thuộc vào loại giàu có nhất tại Ấn Độ.
Sau thất bại trong trận chiến Talikota (tại bang Karnataka ngày nay), cuộc đối đầu giữa Đế chế Vijayanagar và 4 vương triều Hồi giáo liên minh với nhau (Sultanates) vào năm 1565, thủ đô Hampi - Vijayanagar bị đánh chiếm và bị phá hủy. Đế chế Vijayanagar suy tàn, khởi đầu cho sự xâm nhập của người Hồi giáo vào miền Nam Ấn Độ, kéo dài cho đến cuối thế kỷ 18.
Quần thể di tích tại cố đô Hampi – Vijayanagara trải rộng trên một diện tích khoảng 4.187,24 ha, trong lưu vực sông Tungabhadra ở quận Bellary, bang Karnataka với hơn 1.600 tàn tích còn sót lại của Đế chế Vijayanagara, bao gồm pháo đài ven sông, cung điện hoàng gia, đền thờ, bảo tháp, đài tưởng niệm, công trình cung cấp nước và các di tích khác.
Tàn tích Hampi trên nền địa hình núi đá với sông Tungabhadra ở phía sau, Karnataka, Ấn Độ
Dòng sông linh thiêng Tungabhadra với các linh vật tạc vào đá ven sông, Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Quần thể di tích của Đế chế Vijayanagara tại Hampi, quận Bellary, bang Karnataka, Ấn Độ được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 1986) với tiêu chí:
Tiêu chí (i) : Thành phố Hampi với các kiến trúc đền thờ mẫu mực và được quy hoạch hòa hợp với thiên nhiên ngoạn mục xung quanh, là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
Tiêu chí (iii) : Thành phố là một bằng chứng đặc biệt cho một nền văn minh đã biến mất của vương triều Vijayanagara, đạt đến đỉnh cao dưới triều đại của Krishna Deva Raya (hoàng đế Đế chế Vijayanagar, trị vì năm 1509-1529).
Tiêu chí (iv): Cố đô Hampi là một ví dụ nổi bật minh họa một hoàn cảnh lịch sử quan trọng: Sự suy tàn của vương triều Vijayanagara sau trận chiến Talikota (năm 1565). Đây là là nơi lưu giữ một quần thể di tích khảo cổ học dưới dạng các cấu trúc đền thờ, công trình hoàng gia, dân sự và quân sự sống động và tráng lệ, thể hiện hoạt động sống phong phú bên trong thành phố, được tích hợp trong khung cảnh tự nhiên xung quanh.
Sơ đồ phạm vi Di sản Quần thể di tích tại Hampi, quận Bellary, bang Karnataka, Ấn Độ
Quần thể di tích tại Hampi nằm trên địa hình đồi núi được hình thành bởi các tảng đá granit. Hầu hết tất cả các di tích được xây dựng từ năm 1336 đến năm 1570 trong thời kỳ Đế chế Vijayanagara. Địa điểm này bao gồm các di tích của Hindu giáo, Jain giáo và Hồi giáo. Trong đó, di tích Hindu giáo là chủ yếu.
Quần thể di tích Hampi gồm 3 khu vực: Trung tâm Thiêng liêng hay Khu phố Đền (Sacred Centre/ Temple Quarter) ; Trung tâm Hoàng gia hay Khu phố Cung điện (Royal Centre/ Palace Quarter) ; Phần còn lại của cố đô Vijayanagara.
Sơ đồ tổng mặt bằng của 3 khu vực Trung tâm Thiêng liêng, Trung tâm Hoàng gia và Phần còn lại của Cố đô Hampi – Vijayanagara, bang Karnataka, Ấn Độ
Trung tâm Thiêng liêng
Trung tâm Thiêng liêng (Sacred Centre) hay Khu phố đền (Temple Quarter) nằm tại phía bắc Khu vực Di sản, gần sông Tungabhadra (chảy từ tây sang đông).
Sơ đồ vị trí di tích chính tại Trung tâm Thiêng liêng, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Các di tích chính tại đây gồm :
Quần thể Đền Virupaksha
Quần thể Đền Virupaksha (Virupaksha Temple Complex, hình vẽ ký hiệu 1) hay Đền Pampapathi là một trong các di tích Hindu giáo nổi bật trong Khu vực Di sản.
Đây là một trong những di tích đền thờ lâu đời nhất, từng được coi là thánh địa linh thiêng nhất trong nhiều thế kỷ, là điểm đến chính của những người hành hương Hindu giáo và khách du lịch, đặc biệt vào lễ hội mùa xuân hàng năm.
Đền được xây dựng bởi Lakkan Dandesha, một thống chế (Nayaka) dưới thời Deva Raya II (vua của Đế chế Vijayanagara, trị vì năm 1422- 1466). Đền được vua Krishna Deva Raya (trị vì năm 1509- 1529) tiếp tục xây dựng bổ sung.
Virupaksha là ngôi đền duy nhất tiếp tục duy trì hoạt động sau khi kinh đô Hampi bị thất thủ vào năm 1565.
Đền thờ thần Virupaksha, một thế thân của thần Shiva, là một trong 3 vị thần tối cao trong Ấn Độ giáo, bao gồm : Brahma là đấng tạo hóa, Vishnu là đấng bảo hộ, Shiva là đấng hủy diệt. Cả ba tạo thành bộ ba nam thần Hindu (Trimurti).
Đền còn thờ nữ thần địa phương Pampadevi (Pampa/Parvati), là nữ thần Hindu giáo về khả năng sinh sản, tình yêu, sắc đẹp, dũng cảm, hòa hợp, hôn nhân, con cái, sự tận tâm; cũng như sức mạnh thần thánh ; phối ngẫu của thần Shiva). Parvati là một trong những thế thân của thần Bhuvaneswari Devi. Cùng với Lakshmi và Saraswati, tạo thành bộ ba nữ thần Hindu (Tridevi).
Ngoài ra, đền còn thờ thần Durga, một thế thân khác của nữ thần Parvati, là nữ thần Mẹ trong đạo Hindu với rất nhiều dạng hóa thân.
Lịch sử của Đền Virupaksha-Pampa không bị gián đoạn từ khoảng thế kỷ thứ 7, có từ trước khi cố đô Vijayanagara đặt tại đây.
Các chữ khắc đề cập đến thần Shiva có niên đại từ thế kỷ 9 và 10.
Ngôi đền trở thành một quần thể đền lớn dưới thời Đế chế Vijayanagara.
Khi người Hồi giáo đến đây vào thế kỷ 16, hầu hết các cấu trúc và tác phẩm trang trí đã bị phá hủy.
Sơ đồ mặt bằng Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Phối cảnh tổng thể Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Quần thể Đền Virupaksha có trục tổ hợp theo hướng đông – tây. Từ đông sang tây được phân thành : Khu vực trước đền và Khu vực đền, được giới hạn và ngăn cách bởi tường bao.
Khu vực trước đền bắt đầu từ Tháp cổng phía đông (Gopuram/ Gopura) hay Tháp cổng ngoài. Đây là một tháp cổng hoành tráng được trang trí công phu, tương tự như các ngôi tháp cổng hay lối vào của một ngôi đền Hindu giáo điển hình. Tháp cao 9 tầng, đến 50m, được bố trí cân đối. Tháp có cấu trúc thượng tầng bằng gạch và nền bằng đá ; mặt bằng hình vuông với một hành lang nằm chính giữa theo hướng đông – tây. Thân tháp dạng kiểu dật bậc, thu gọn dần theo chiều cao và kết thúc bằng một hình tượng như một vòm thùng.
Tháp cổng phía đông, Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Sau Tháp cổng ngoài là sân trong phía ngoài. Bên trong sân có các tòa nhà phụ trợ và hội trường tiếp đón (Community Hall), trong đó có công trình mang tên "Tòa nhà trăm cột " (100- Columned Hall). Tòa nhà trăm cột được trang trí các bức phù điêu liên quan đến đạo Hindu trên cả 4 mặt của mỗi cột.
Từ tòa nhà Trăm cột có một cửa thông sang Nhà bếp (Kitche), tại phía nam của Quần thể.
Tại đây có một con kênh được khoét vào đá để dẫn nước đến nhà bếp và sảnh ăn.
Khu vực đền bắt đầu từ Tháp cổng phía trong (Gopuram/ Gopura) với quy mô nhỏ hơn so với Tháp cổng ngoài. Sau Tháp cổng trong là một sân trong chính. Hai bên phía bắc và nam của sân trong là hàng hiên (Veranda) với các dãy cột, không có tường bao quanh.
Chính giữa sân trong chính là một hàng cột cờ và một đền nhỏ thờ thần bò Nandi (Dipa- stambha flag post Nandi), nằm trùng với trục chính của Đền thờ.
Sân trong chính với hàng cột cờ và đền thờ bò Nandi, Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Chính điện của Quần thể Đền Virupaksha (Main Shrine) nằm tại cuối phía tây của Quần thể. Chính điện có mặt bằng hình chữ nhật kéo dài, gồm các khối nhà:
Hội trường (Maha- Mandapa) là nơi được sử dụng để tiến hành các bài thuyết giáo về tôn giáo, nơi đặt lễ vật và tín đồ làm lễ. Đây là khối nhà được giới hạn bởi hành lang cột bao quanh. Không có tường bao. Phía trước Hội trường là một hàng hiên sảnh 3 gian (4 cột). Trần Hội trường được trang trí bởi các bức bích họa thể hiện các truyền thuyết Hindu giáo. Các bức tranh trên trần được cải tạo lại vào thế kỷ 19.
Đền chính có tường bao kín xung quanh, ngoài cùng là hàng cột hiên, gồm 3 khối (Mandapa) :
Khối Tiền đường có mặt bằng hình vuông ; 4 mặt có 4 lối ra vào. Tại đây có không gian Nandi Mandapa, nơi đặt tượng bò thần Nandi gắn với bức tượng và lingam của thần Shiva.
Khối Trung đường có mặt bằng hình chữ nhật, chia thành hai ngăn: Hiên (Mukha Mandapa) và một không gian hình vuông ; chỉ có 2 lối ra vào tại hướng đông và tây.
Khối Hậu đường hay Điện thờ (Shrine) với mặt bằng hình vuông, gồm 2 lớp không gian ; chỉ có 1 lối ra vào tại hướng đông. Điện thờ phân thành hai phần : Phần đặt bàn thờ linh vật (Garba griha/shrine) có chiều cao, cấu trúc xây dựng và trang trí tương tụ như khối Tiền đường và Trung đường ; Phần tháp phía trên bàn thờ (Rekha – deula/ Vimana), là một tháp nhỏ, cao 4 tầng.
Đền Virupaksha được trang trí bằng những cột trụ được chạm khắc tinh xảo với hình tượng của các nhân vật thần thoại, là sự kết hợp đặc điểm của ngựa, sư tử và các động vật khác với chiến binh vũ trang cưỡi trên lưng, Các trang trí này tạo thành đặc trưng của phong cách Vijayanagara.
Sơ đồ mặt bên Đền Virupaksha, cấu trúc điển hình ngôi đền Hindu giáo tại Cố đô Hampi – Vijayanagara và miền nam Ấn Độ, thế kỷ 14
Phối cảnh khối Hội trường; Bên phải ảnh là Tháp cổng phía bắc (Kanakagiri Gopura),
Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Bên trong Hội trường (Maha- Mandapa), Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Chi tiết cột bên trong Hội trường, Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Bên trong Điện thờ, Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Các bức bích họa trên trần Điện thờ, Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Tại phía bắc của Đền thờ chính có Tháp cổng phía bắc (Kanakagiri Gopura) dẫn ra bên ngoài tường bao, đến Hồ chứa (Manmatha Tank, hình vẽ ký hiệu 2) và cuối cùng dẫn đến sông Tungabhadra. Xung quanh Hồ chứa có một số đền thờ của giáo phái Shakism (thờ Nữ thần) và giáo phái Vaishnavism (thờ thần Vishnu).
Hồ chứa Manmatha Tank, Quần thể Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Đoạn sông Tungabhadra, cạnh Quần thể Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Tại phía nam của Đền thờ chính có cụm công trình đền thờ thần Shava (Shaiva Shrines, hình vẽ ký hiệu 3). Kề liền là một quần thể các ngôi đền nhỏ nằm trên đồi Hemakuta Hill.
Tại phía tây của Đền thờ chính là một bể chứa nhỏ hình vuông (Tank, hình vẽ ký hiệu 4).
Tại phía đông của Đền thờ chính là Tuyến phố chợ (Bazaar). Phố chợ dài khoảng 1km, kéo dài từ Đền Virupaksha đến chân đồi Matanga. Hai bên đường có các tàn tích, là một phần của khu chợ thịnh vượng và là nơi ở của giới quý tộc.
Tàn tích Tuyến phố chợ, cạnh Quần thể Đền Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Đền Sasivekalu Ganesha
Đền Sasivekalu Ganesha (Monolithic Ganesha, ký hiệu 5) : nằm tại phía nam của Quần thể đền trên đồi Hemakuta. Đền thờ Ganesh, vị thần đầu voi, con trai của thần Parvati và thần Shiva.
Đền được xây dựng vào năm năm 1506 bởi một vị thương nhân để tưởng nhớ vị vua Narasimha II (trị vì năm 1491-1505).
Đền là một không gian mở bao quanh tượng thờ khổng lồ với trọng lượng đến 2,4 tấn.
Đền Sasivekalu Ganesha và tượng thần Ganesh, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Quần thể Đền Krishna
Quần thể Đền Krishna (Krishna Temple Complex, hình vẽ ký hiệu 6) còn gọi là Đền thờ Balakrishna và Krishnapura, nằm tại phía nam của Quần thể Đền Virupaksha, cách khoảng 1km, ở phía bên kia của đồi Hemakuta.
Đền Krishna là một trong những ngôi đền nổi tiếng nhất ở Hampi, được xây dựng bởi vị vua nổi tiếng nhất của Đế chế Vijayanagara là Krishna Deva Raya (trị vì năm 1509- 1529) vào năm 1513.
Đền thờ thần Balakrishna (Thần Krishna khi còn nhỏ). Đây là vị thần chủ chốt trong Ấn Độ Giáo, thế thân của thần Visnu; là vị thần của lòng trắc ẩn, tình yêu, trí tuệ và là một trong những vị thần Ấn Độ được tôn kính, ca tụng rộng rãi.
Phối cảnh tổng thể Quần thể Đền Krishna, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng Quần thể Đền Krishna, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Đền Krishna bố cục theo trục đông – tây, được bao quanh bởi một Bức tường vòng ngoài, có mặt bằng có hình dáng gần như hình chữ nhật với 4 cổng ra vào tại các hướng đông, tây, nam, bắc. Trong đó Cổng ngoài (Nghi môn ngoại) chính nằm tại hướng đông.
Phía sau Cổng ngoài là Bức tường vòng trong, bao quanh Đền. Tại đây có 3 cổng vào tại phía bắc, nam và đông. Trong đó Cổng phía đông là Tháp cổng chính (Gopuram/ Gopura). Tháp cổng chính được trang trí bởi các hình chạm khắc, trong đó có 10 hóa thân của thần Vishnu. Tháp hiện chỉ còn lại tàn tích của phần bệ phía dưới.
Bên trong sân của Vòng tường ngoài có các công trình phục vụ.
Bức tường vòng trong có mặt bằng hình chữ nhật. Dọc theo chu vi tường phía bắc, nam và tây là dãy hành lang với các hàng cột. Đây được cho là nơi bố trí những gian hàng dài của các cửa hàng trong phố chợ.
Đền nằm tại trung tâm của Khu vực vòng tường trong.
Mặt bằng của Đền Krishna tương tự như các ngôi đền Hindu giáo tại Đế chế Vijayanagara :
Phía trước đền là khối Hội trường (Maha- Mandapa/ Sabhamandapa). Đây là nơi được sử dụng để tiến hành các bài thuyết giáo về tôn giáo, nơi đặt lễ vật và tín đồ làm lễ. Không gian này được giới hạn bởi hành lang cột bao quanh, không có tường bao, có cửa ra vào từ 4 phía. Phía trước Hội trường nhô ra một khối như khối sảnh (Ardhamandapa).
Phía sau Hội trường là Đền chính. Đền chính gồm 2 khối (Mandapa) có tường bao kín xung quanh:
Khối Tiền đường (Antarala) có mặt bằng hình vuông với lối ra vào từ 4 phía.
Khối Hậu đường hay Điện thờ (Shrine/ Gudhamandapa) có mặt bằng hình chữ nhật với chiều cao, cấu trúc xây dựng và trang trí tương tự như Tiền đường. Điện thờ chỉ có 1 lối ra vào tại hướng đông.
Phía trước Ban thờ là không gian Sảnh (Sabhamandapa), được trang trí đẹp mắt với vị thần hộ vệ hay chiến binh (Vaishnava Dvarapalas) tại hai bên và và nữ thần Gajalakshmi với những con voi. Hội trường (Sabhamandapa) có bốn trụ cột trung tâm với tác phẩm điêu khắc về Chim thần (Garuda), Khỉ thần (Hanuman), Thần Krishna…
Ban thờ có một hành lang bao 4 phía xung quanh.
Ban thờ là nơi đặt linh vật (Garbhagriha/shrine), được làm bằng đá granit đen xanh lục ; Bức tượng Balakrishna (Thần Krishna khi còn bé đang ngồi trên bệ) ban đầu đã không còn; Phía trên Ban thờ là một tháp nhỏ (Rekha – deula/ Vimana), cao 3 tầng.
Đền Krishna được xây dựng phần lớn bằng đá granit ; các bức tường, tháp được xây bằng gạch và vữa.
Khối Hội trường (Maha- Mandapa), Quần thể Đền Krishna, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Các hàng cột bên trong Khối Hội trường, Quần thể Đền Krishna, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Xung quanh Đền thờ chính có các đền thờ nhỏ và công trình dịch vụ như bếp.
Tại phía đông của Quần thể Đền có một bể chứa nước (Pushkarani), hiện đã không còn sử dụng.
Phía nam của của Đền Krishna có một điện thờ Shiva Linga nguyên khối, cao 3m.
Bể chứa nước (Pushkarani), Quần thể Đền Krishna, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Linh vật Shiva Linga trong một điện thờ nhỏ tại Quần thể Đền Krishna, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Tượng thờ Yoga- Narasimha
Tượng thờ Yoga- Narasimha (Monolithic Narsimha, hình vẽ ký hiệu 7) nằm tại phía tây nam của Đền Krishna.
Tượng bằng đá nguyên khối lớn thờ thần Narasimha, là một trong mười hóa thân (avatar) của thần Vishnu và nữ thần Lakshmi.
Bức tượng Lakshmi Narasimha, cao 6,7m, là một trong những tác phẩm điêu khắc hùng vĩ nhất được tìm thấy ở cố đô Hampi, là một trong những ví dụ điển hình nhất của phong cách nghệ thuật và kiến trúc Vijayanagara.
Thần ngồi dưới 7 đầu của một con rắn như một cái ô che.
Vị thần có khuôn mặt dữ tợn với đôi mắt lồi, ngồi trong tư thế bắt chéo chân theo kiểu Yogasana (bức tượng còn được gọi là Yoga-Narasimha).
Bức tượng và ngôi đền chứa bức tượng được dựng vào năm 1528, dưới thời vua Krishna Deva Raya (trị vì năm 1509- 1529).
Thần Yoga-Narasimha tạc vào đá nguyên khối, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Tượng thờ Nandi
Tượng thờ Nandi (Monolithic Nandi, hình vẽ ký hiệu 8) nằm tại cuối của Tuyến phố chợ (Bazaar). Đây cũng là nơi đặt Bảo tàng Khảo cổ học (Archaeological Museum).
Bức tượng thờ thần bò Nandi, vật cưỡi của thần Shiva, làm bằng đá nguyên khối. Tượng được đặt trong một gian nhà nằm trên một bệ nền cao 2 bậc. Phía sau là những khối đá khổng lồ làm nền cho cảnh quan của ngôi Đền.
Tượng thờ thần bò Nandi, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Quần thể Đền Tiruvengalanatha
Quần thể Đền Tiruvengalanatha (Tiruvengalanatha Temple Complex, hình vẽ ký hiệu 11), còn gọi là Đền Achyutaraya (Achyutaraya Temple Complex), nằm tại phía đông của đồi Matanga (Matanga Hill).
Một phần của Quần thể nằm gần sông Tungabhadra.
Quần thể được xây dựng vào năm 1534 bởi vua Achyuta Deva Raya (trị vì năm 1529–1542) tại Timmalapura gần Hampi, là một trong bốn khu phức hợp lớn nhất ở Hampi. Đền thờ thần Vishnu.
Đền Achyutaraya có bố cục khác thường, không theo hướng đông tây mà quay mặt về phía bắc.
Vào thời Vijayanagara, theo truyền thống, ngôi đền được tiếp cận từ sông, đầu tiên là qua một không gian nghi lễ, sau đó dọc theo phố chợ với một con đường rộng.
Di tích Đền Achyutaraya; Bên phải: chợ trước di tích đền ; Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Phối cảnh tổng thể Quần thể Đền Achyutaraya; Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng Quần thể Đền Achyutaraya; Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ; Ghi chú:
1.Gateways 2.Kalyanamantapa (Ceremonial Hall) 3. Colonnade 4.Open Hall 5. Main Shrine ( Sanctum ) 6. Shrine of Goddess 7. Shrine for Garuda 8.Veerabhadra Temple (atop Matunga Hill) 9.Durga Shrine 10. Courtesan's Street
Quần thể Đền được bao quanh bởi một Bức tường vòng ngoài, có mặt bằng có hình dáng gần như hình chữ nhật với 4 cổng ra vào (Gateways) : 1 cổng chính tại hướng bắc, 2 cổng phụ tại phía tây và 1 cổng phụ tại phía nam.
Cổng chính ngoài (Gopuram/ Gopura, Nghi môn ngoại) có mặt bằng hình vuông với lối vào tại mặt bắc và nam. Bên trong sân ngoài có Nhà chuẩn bị nghi lễ (Kalyanamantapa/ Ceremonial Hall) và Dãy hành lang với các hàng cột dọc tường phía đông (Colonnade).Phía sau cổng ngoài là Bức tường vòng trong hình chữ nhật, bao quanh đền. Tại đây có 3 cổng vào tại phía bắc, tây và đông. Trong đó, cổng phía bắc là Tháp cổng chính (Gopuram/ Gopura, Nghi môn ngoại), có mặt bằng hình dáng tương tự như Nghi môn ngoại.
Tháp cổng trong, Quần thể Đền Achyutaraya; Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Tương tự như các ngôi đền Hindu giáo khác, Đền Achyutaraya gồm các khối công trình chính :
Hội trường mở (không có tường bao/ Open Hall) hay sảnh với 100 cột (10 hàng, mỗi hàng 10 cột), và được trang trí bởi các biểu tượng của Giáo phái Shaivism (thờ thần Shiva) và Shakuality (Shaktism/thờ nữ thần), ví dụ như hình ảnh chạm khắc nữ thần Lakshmi (một trong ba vị thần nữ - Tridevi, bao gồm Saraswati, Lakshmi và Parvati) và nữ thần Kali (thần Hủy diệt). Ngoài ra, tại đây còn có những bức phù điêu nhỏ thể hiện : Các hình tượng bắt nguồn từ sử thi Ramayana, trường ca Mahabharata và trường ca Bhagavata Purana ; Tư thế Yoga, đặc biệt là môn pháp dưỡng sinh Yoga Hatha ; Thiền trong tư thế chắp tay (Namaste)…
Phía trước của Hội trường có Đền thờ chim thần Garuda (Shrine for Garuda), là vật cưỡi của thần Vishnu.
Tiếp sau là khối Tiền đường là khối Hậu đường hay Điện thờ chính (Main Shrine/ Sanctum). Điện thờ phân thành hai phần : Phần đặt bàn thờ linh vật (Garba griha/shrine) với chiều cao, cấu trúc xây dựng và trang trí tương tự như Khối tiền đường; Phần tháp phía trên bàn thờ (Rekha – deula/ Vimana), là một tháp nhỏ với tàn tích cao 2 tầng.
Dọc theo 4 bức tường xung quanh Điện thờ là các dãy hành lang với cột (Colonnade) và những công trình phụ trợ.
Khối Hội trường, nhìn ra phía Tháp cổng trong, Quần thể Đền Achyutaraya; Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Các di tích khác tại Trung tâm Thiêng liêng
Tại Trung tâm Thiêng liêng (Sacred Centre) còn có các di tích khác :
Đền Kodandarama (Kodandarama Temple, hình vẽ ký hiệu 9) nằm tại phía đông bắc của Khu vực Trung tâm Thiêng liêng, kề liền bờ sông Tungabhadra. Bờ sông tại đây được coi là thánh địa, nơi có các cấu trúc (Ghat) dạng bậc xuống bờ sông hoặc bến thuyền, là nơi tắm rửa hoặc hỏa táng. Dọc theo bờ sông có các miếu thờ nhỏ (mandapa) dành cho các vị thần Hindu giáo và các bức phù điêu mô tả truyền thuyết và hình ảnh đại diện của các vị thần Hindu giáo.
Đền Kodandarama, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Bờ sông Tungabhadra, nơi diễn ra các hoạt động thế tục và tâm linh; Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Đền thờ thần Shiva (Shiva Temple, hình vẽ ký hiệu 10) nằm tại phía đông của Đền Kodandarama gần vùng nước thiêng Chakra Tirtha cạnh sông.
Đền Narasima (Narasima Temple, hình vẽ ký hiệu 12) nằm tại phía đông bắc của Trung tâm Thiêng liêng.
Hang đá Sugrivas (Sugriva's Cave, hình vẽ ký hiệu 13) nằm tại phía đông bắc của Trung tâm Thiêng liêng.
Hang đá Sugrivas, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Quần thể Đền trên đồi Hemakuta (Hemakuta Hill Temple Complex) nằm giữa Quần thể Đền Virupaksha ở phía bắc và Đền Krishna ở phía nam. Đây là nơi lưu giữ một bộ sưu tập các ngôi đền có kích thước khiêm tốn, được xây dựng vào thời kỳ đầu của Đế chế Vijayanagara. Phần lớn là các ngôi đền thờ thần Shiva. Một số ngôi đền được tạc từ các khối đá. Ngoài các tàn tích đền thờ, tại đây còn có tàn tích của các bức tường nhà ở của thương nhân, kênh dẫn nước và bể chứa cung cấp nước cho chợ, cư dân và du khách.
Trung tâm Hoàng gia
Trung tâm Hoàng gia (Royal Centre) còn gọi là Khu phố Cung điện (Palace Quarter) nằm tại phía nam Khu vực Di sản.
Sơ đồ vị trí di tích chính tại Trung tâm Hoàng gia, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Các di tích chính tại đây gồm :
Đền Hazara
Đền Hazara (Hazara/Ramachandra Temple, hình vẽ ký hiệu 1) nằm tại chính giữa Trung tâm Hoàng gia. Đền thờ thần Rama, thế thân của thần Vishnu và là ngôi đền, nhà nguyện dành cho Hoàng gia.
Đền Hazara Rama được xây dựng vào đầu thế kỷ 15, dưới triều vua Deva Raya II (trị vì năm 1422 – 1446, là một nhà quản trị, chiến binh và học giả tài năng).
Đền có bố cục đông – tây, quay về hướng đông.
Phía trước, phía bắc của Đền là một bãi cỏ. Đền có hai cổng vào, từ phía đông và phía bắc.
Các bức tường bên ngoài ngôi Đền là duy nhất tại Khu vực Di sản có bức chạm khắc mô tả sự tích tôn giáo, nghi lễ của người Hindu giáo.
Bên trong Đền có các cột được điêu khắc tinh xảo và hàng ngàn mảng chữ khắc nổi tiếng mô tả sử thi Ramayana, các bức bích họa công phu miêu tả thần Vishnu, các sự tích Hindu giáo và các cảnh các đám rước lễ với người, voi, ngựa.
Sơ đồ mặt cắt, mặt bên Quần thể Đền Hazara, điển hình của nghệ thuật và kiến trúc Vijayanagara, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Phối cảnh khối Hội trường (Maha- Mandapa), Đền Hazara, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Bên trong khối Tiền đường (Antarala), phía trước Điện thờ, Đền Hazara, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Chạm khắc đá bên trong Đền Hazara, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Đền trăm cột
Đền trăm cột (Hundred- Columned Hall, hình vẽ ký hiệu 2) nằm tại phía nam của Đền Hazara.
Bệ nền vĩ đại
Bệ nền vĩ đại (Great Platforms, hình vẽ ký hiệu 3), còn được gọi là Bệ nền Mahanavami (Mahanavami Dibba), nằm tại phía đông của Đền trăm cột. Di tích nằm trong khuôn viên rộng 7,5 ha tại một trong những điểm cao nhất bên trong Trung tâm Hoàng gia, có chức năng cho hoạt động nghi lễ.
Bệ nền có 3 sân khấu hình vuông, dẫn tới một bệ lớn hình vuông. Trên mặt bệ nền có thể có một đền thờ (Mandapa) bằng gỗ và đã bị thiêu hủy trong chiến tranh. Hai tầng dưới của Bệ được làm bằng đá granit.
Bệ được trang trí bằng những bức phù điêu là chữ khắc mô tả hoạt động của Hoàng gia vào thế kỷ 14 và hình tượng của những hàng động vật diễu hành, gồm voi, ngựa và lạc đà.
Phù điêu ở mặt phía nam của Bệ nền thể hiện nhạc công và vũ công, trong đó có hình tượng nữ vũ công múa gậy .
Các bức phù điêu tại bậc nền thứ ba thể hiện một đám rước, các cặp vợ chồng và cảnh lễ hội Holi (Vasantotsava, lễ hội tôn vinh mùa xuân, tình yêu và cuộc sống với khiêu vũ, ca hát và ném sơn bột, nước màu) và còn được gọi là Lễ hội Sắc màu.
Bệ nền vĩ đại (Great Platforms), Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Kề liền phía tây là tàn tích của các bệ nền (Ruined Platforms, hình vẽ ký hiệu 4) nhỏ khác.
Kề liền phía nam là tàn tích của Hồ nước dạng bậc (Stepped Tank, hình vẽ ký hiệu 5) và Nhà tắm lớn (Great Bath, hình vẽ ký hiệu 6), nằm tại phía nam của Khu Trung tâm Hoàng gia.
Bên cạnh Di tích còn có khu vườn với nhiều di tích tượng đài khác nhau.
Hồ nước dạng bậc, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Cung điện Hoa Sen
Cung điện Hoa Sen (Lotus Mahal/ Chitrangini Mahal, hình vẽ ký hiệu 11) được sử dụng làm nơi lưu trú cho phụ nữ hoàng gia của Đế chế Vijayanagara, nằm tại phía đông bắc Trung tâm Hoàng gia.
Đây cũng là nơi vua họp bàn với các quần thần và nơi thư giãn của Hoàng gia.
Cung điện nằm trong một khu phức hợp có tường bao quanh với bố cục đối xứng về bốn phía.
Công trình cao 2 tầng. Tầng trệt được đặt trên một bệ nền đá trang trí cao.
Cả hai tầng đều có các lỗ mở hình vòm và được bao quanh bởi các thiết kế trang trí phức tạp bằng thạch cao.
Mái vòm của Cung điện có hình tượng như một búp sen đang hé mở.
Các đường cong của Cung điện được lấy cảm hứng từ kiến trúc Hồi giáo.
Di tích Cung điện có tổng cộng 8 tháp hình chóp ở các góc, 1 tháp lớn ở trung tâm và được hỗ trợ bởi 24 cây cột. Tháp có dạng hình chóp theo phong cách của kiến trúc Ấn Độ.
Cung điện được xây bằng gạch, trát vữa. Các cột đá được chạm khắc hình tượng động vật thủy sinh, thực vật.
Cung điện hiện đã bị hủy hoại phần lớn và mất hầu hết các trang trí chạm khắc.
Cung điện Hoa Sen, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Sơ đồ mặt cắt Cung điện Hoa Sen, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Trang trí cột, Cung điện Hoa Sen, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Các tàn tích khác tại Trung tâm Hoàng gia
Trong Khu vực Trung tâm Hoàng gia còn rất nhiều di tích khác như :
Tàn tích cung điện (Ruined Palaces, hình vẽ ký hiệu 7), bao gồm 7 công trình ;
Nhà trưng bày hình bát giác (Octagonal Pavilion) và Nhà thờ Số Chín (Nine – Domed Hall, hình vẽ ký hiệu 8) nằm tại phía đông của Tàn tích cung điện;
Đền ngầm Prasanna Virupaksha (Underground Temple, hình vẽ ký hiệu 9) nằm tại rìa phía tây Khu Trung tâm Hoàng gia; Đền dành riêng cho thần Virupaksha, hóa thân của thần Shiva. Đền được đặt ngầm trong lòng đất (hiện ngập trong nước). Đây từng là ngôi đền riêng cho gia đình hoàng gia ;
Tháp cổng vào Đền ngầm Prasanna Virupaksha, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Cấu trúc Hình vòng cung (Vaulted Structure, hình vẽ ký hiệu 10) ;
Tháp canh (Watch Towers, hình vẽ ký hiệu 12) nằm tại góc của bức tường bao quanh Cung điện Hoa Sen ;
Chuồng voi (Elephant Stables/ Gajashala, hình vẽ ký hiệu 13) nằm tại phía đông của Cung điện Hoa Sen. Di tích bao gồm 11 buồng vuông thẳng hàng theo hướng Bắc - Nam. Các lỗ thông với chuồng được tạo hình vòm; trên mười buồng là các mái vòm phẳng và gấp nếp xen kẽ. Ở giữa các buồng là cầu thang để lên mái ;
Di tích Chuồng voi, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Cấu trúc hình chữ nhật (Rectangular Structure, hình vẽ ký hiệu 14) nằm tại phía đông bắc Cung điện Hoa Sen ;
Đền Jain giáo/ Kỳ Na giáo (Jaina Temple, hình vẽ ký hiệu 15) nằm tại rìa phía đông bắc Trung tâm Hoàng gia ;
Đền Vishnu (Vishnu Temple, hình vẽ ký hiệu16) nằm tại rìa phía đông bắc Trung tâm Hoàng gia ;
Đền Madhava (Madhava Temple, hình vẽ ký hiệu 17) nằm tại phía nam Cung điện Hoa Sen ;
Đền Ellamma (Ellamma Temple, hình vẽ ký hiệu 18) nằm tại phía nam Đền Madhava ;
Đền thờ tạc vào đá (Rock- Cut Shrine, hình vẽ ký hiệu 19) nằm tại dãy núi phía đông Trung tâm Hoàng gia ;
Đền Tiruvengalanatha (Tiruvengalanatha Temple, hình vẽ ký hiệu 20) nằm tại phía đông Trung tâm Hoàng gia ;
Bồn tắm hình bát giác (Octagonal Bath, hình vẽ ký hiệu 21) nằm tại phía đông Trung tâm Hoàng gia ;
Đền Shiva (Shiva Temple, hình vẽ ký hiệu 22) nằm tại phía đông nam Trung tâm Hoàng gia ;
Nhà tắm Nữ hoàng (Queens Bath, hình vẽ ký hiệu 23) nằm tại phía nam Trung tâm Hoàng gia ;
Giếng phun hình bát giác (Octagonal Fountain, hình vẽ ký hiệu 24) nằm tại phía nam Trung tâm Hoàng gia ;
Khu dân cư (Noblemens Quarter, hình vẽ ký hiệu 25) nằm tại phía tây bắc Trung tâm Hoàng gia. Đây là nơi sinh sống của các quý tộc Vijayanagar. Hiện chỉ còn lại tàn tích móng nhà và móng chuồng ngựa.
Tàn tích Bồn tắm hình bát giác (Octagonal Bath), Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Di tích Nhà tắm Nữ hoàng (Queens Bath) Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Tàn tích Khu dân cư (Noblemens Quarter), Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Các khu vực khác nằm ngoài Trung tâm Thiêng liêng và Trung tâm Hoàng gia
Ngoài các di tích tại hai Trung tâm Thiêng liêng và Trung tâm Hoàng gia, tại khu vực Di sản còn có một số di tích nổi bật khác :
Quần thể Đền Vitthala
Quần thể Đền Vitthala (Vitthala Temple Complex) nằm cách Đền Virupaksha hơn 3 km về phía đông bắc gần bờ sông Tungabhadra.
Đây là ngôi đền Hindu giáo tinh xảo nhất về mặt nghệ thuật ở Hampi. Không rõ Quần thể được xây dựng từ khi nào, và do ai xây dựng. Hầu hết các học giả xác định niên đại của Đền vào thế kỷ 15 - 16.
Các dòng chữ trên các bức chạm khắc cho thấy Quần thể được xây dựng bởi nhiều nhà tài trợ.
Đền thờ thần Vitthala, một dạng thế thân của thần Krishna còn được gọi là Vithoba (một trong những vị thần phổ biến nhất và được tôn kính rộng rãi trong số các thần thánh của Ấn Độ, biểu tượng của sự bảo vệ, từ bi, dịu dàng và tình yêu.
Quần thể Đền Vitthala có mặt bằng hình chữ nhật, bố cục theo hướng đông tây, hướng về phía đông.
Đền được bao quanh bởi một bức tường với 3 cổng ra vào (Gopuram/ Gopura), tại phía đông, phía bắc và nam.
Tháp cổng chính nằm tại phía đông, tại trục chính của Quần thể. Phía sau Tháp cổng chính là Đền thờ Garuda (thần bảo vệ với hình dạng chim hoặc hình người với cánh chim)
trong hình thức của một xe ngựa (Chariot).
Sơ đồ mặt bằng Quần thể Đền Vitthala, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Phối cảnh tổng thể Quần thể Đền Vitthala, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Tháp cổng chính, phía trước Quần thể Đền Vitthala, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Tương tự như các ngôi đền Hindu giáo khác, Đền Vitthala gồm 3 khối công trình chính :
Hội trường mở (không có tường bao, Open Hall/ mahamandapa) với các hàng cột ;
Tiếp sau là khối Tiền đường (Ardhamandapa) và khối Hậu đường hay Điện thờ chính (Main Shrine/ Sanctum/ Mahamandapa).
Điện thờ chính phân thành hai phần: Phần đặt bàn thờ linh vật (Garba griha/Shrine) ; có chiều cao, cấu trúc xây dựng và trang trí tương tụ như Khối tiền đường; Phần tháp phía trên bàn thờ (Rekha – Deula/ Vimana), là một tháp nhỏ cao 2 tầng.
Dọc theo 4 bức tường xung quanh Điện thờ là dãy hành lang với cột (Colonnade), Hội trường nghi lễ công cộng (Kalyana Mandapa, nằm tại phía đông nam Điện thờ chính) và những công trình phụ trợ khác.
Bên trong sân Quần thể Đền Vitthala, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Đền thờ Garuda dưới dạng cỗ xe bằng đá, bên trong sân tại Quần thể Đền Vitthala, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Mặt trước Hội trường nghi lễ công cộng (Kalyana Mandapa), Quần thể Đền Vitthala, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Trang trí bên trong công trình tại Quần thể Đền Vitthala, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Bên ngoài khuôn viên của Đền, về phía đông nam, là một phố chợ với hàng cột dài gần một km, hiện chỉ còn lại tàn tích.
Quần thể Đền Vitthala được cho một trong những ngôi đền lớn nhất tại khu vực Di sản, thể hiện sự sáng tạo to lớn và đặc sắc về kiến trúc của những nhà điêu khắc và nghệ nhân thời Đế chế Vijayanagara.
Quần thể Đền Pattabhirama
Quần thể Đền Pattabhirama (Pattabhirama Temple Complex) nằm ở ngoại ô phía nam bên ngoài Khu Trung tâm Thiêng liêng và Trung tâm Hoàng gia.
Công trình được xây dựng vào đầu thế kỷ 16, là hạt nhân của hoạt động kinh tế và văn hóa của vùng ngoại ô.
Đền thờ thần Rama (thế thân của thần Vishnu) có bố cục quay mặt về phía đông.
Quần thể có lối vào tương tự như các ngôi đền khác với tháp cổng (Gopura) cao 6 tầng.
Phía trước Điện thờ là Hội trường nghi lễ (Mandapa) với 100 cột. Các cột trụ gắn những bức phù điêu mô tả các chủ đề Hindu giáo bao gồm các hình tượng tư thế Yoga, tư thế chắp tay Thiền và các văn bản Hindu giáo. …
Quần thể Đền Pattabhirama, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Bên trong gian Hội trường, Quần thể Đền Pattabhirama, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Di tích Jain giáo
Di tích Jain giáo (Jain Monuments) tại khu vực Di sản thường nằm xen kẽ với các di tích Hindu giáo.
Di tích Jain giáo nổi bật tại Di sản là Quần thể Đền Ganigitti (Ganagitti Temple Complex).
Quần thể nằm gần cổng Bhima ở phía đông nam của Trung tâm Hoàng gia.
Đền được xây dựng vào năm 1385, dưới thời cai trị của vua Harihara II (trị vì năm 1377–1404), thờ thần Tirthankara Kunthunatha.
Quần thể Đền quay mặt về hướng bắc. Trước mặt là Quần thể là một trụ đèn bằng đá nguyên khối.
Di tích đền hiện còn lại tàn tích tường, hội trường bằng đá và một ngôi đền hình vuông. Đền không còn tượng thờ.
Trên các trụ và các ô cửa đều có trang trí.
Phía trên Điện thờ là một tòa tháp hình chóp theo phong cách của người Dravidian.
Trong khuôn viên của Quần thể Đền có có một số các tàn tích khác.
Quần thể Đền Ganigitti, thờ thần Jain giáo Tirthankara Kunthunatha., Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Di tích Hồi giáo
Ngoài các di tích Hindu giáo, Jaina giáo, tại đây có các di tích Hồi giáo (Muslim Monuments). Những di tích này không nằm tại Khu Trung tâm Thiêng liêng và Trung tâm Hoàng gia, mà phần lớn nằm tại ngoại ô, nơi các cư dân sinh sống tập trung tại thung lũng phía đông bắc của Trung tâm Hoàng gia.
Các di tích này bao gồm 2 nhà thờ Hồi giáo, một nghĩa trang (trong đó có lăng mộ của lãnh tụ Hồi giáo Ahmad Khan), những con đường, bể nước, cổng chào, một khu khu dân cư. Các di tích này phần lớn chỉ còn lại các tàn tích.
Lăng mộ của lãnh tụ Hồi giáo Ahmad Khan, Cố đô Hampi, Karnataka, Ấn Độ
Cơ sở hạ tầng nước
Cơ sở hạ tầng nước ở Hampi được sử dụng cho các nghi lễ, sinh hoạt, du khách và tưới tiêu.
Các cơ sở này gồm các hệ thống dẫn nước đến các bể chứa và các khu vực khác của thành phố, cũng như cống rãnh và kênh để loại bỏ nước tràn.
Các cuộc khai quật khảo cổ học vào năm 1990 đã phát hiện ra 23 giếng và bể chứa ở Di sản Hampi.
Di sản Quần thể di tích tại Hampi, quận Bellary, bang Karnataka, Ấn Độ là minh chứng về một giai đoạn lịch sử hào hùng của Đế chế Vijayanagara. Đế chế đã tạo ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử miền Nam Ấn Độ, vượt qua tầm vóc khu vực thông qua việc quảng bá văn hóa Ấn Độ giáo như một nhân tố thống nhất.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://whc.unesco.org/en/list/241/
https://en.wikipedia.org/wiki/India
https://en.wikipedia.org/wiki/Vijayanagara_Empire
https://en.wikipedia.org/wiki/Krishnadevaraya
https://en.wikipedia.org/wiki/Hampi
https://hampi.in/virupaksha-temple
https://en.wikipedia.org/wiki/Virupaksha_Temple,_Hampi
https://hampi.in/virupaksha-temple
https://www.re-thinkingthefuture.com/rtf-fresh-perspectives/a1305-hampi-city-lost-in-time-part-2/
https://en.wikipedia.org/wiki/Achyuta_Deva_Raya
https://hampi.in/hemakuta-hill
https://hampi.in/hazara-rama-temple
https://www.penn.museum/sites/VRP/html/Maps.html
https://www.penn.museum/sites/VRP/html/Royal.html
https://en.wikipedia.org/wiki/Lotus_Mahal
http://www.kamit.jp/02_unesco/10_hampi/ham_eng.htm
https://rolfgross.dreamhosters.com/IndianArtArchitecture/Hampi-Vijayanagar/Hampi-Vjayanagar.html
https://www.penn.museum/sites/VRP/html/Maps.html#Royal
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|