Thông tin chung:
Công trình: Thị trấn cổ và Cầu dẫn nước Segovia (Old Town of Segovia and its Aqueduct)
Địa điểm: Cộng đồng tự trị Castile-Leon, Spain (N40 56 54,5 W4 7 0,3)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản: 134,28 ha; Diện tích vùng đệm: 401,44 ha
Năm hình thành:
Giá trị: Di sản thế giới (năm 1985, sửa đổi ranh giới nhỏ vào năm 2015; hạng mục i, iii, iv)
Tây Ban Nha (Spain) là một quốc gia ở Tây Nam Châu Âu với một số vùng lãnh thổ tại eo biển Gibraltar và Đại Tây Dương.
Lãnh thổ lục địa châu Âu của Tây Ban Nha nằm trên Bán đảo Iberia (Iberian Peninsula, góc tây nam châu Âu, gồm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Andorra, một phần nhỏ của Pháp và Gibraltar, lãnh thổ hải ngoại của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland).
Tây Ban Nha cũng bao gồm hai quần đảo: Quần đảo Canary ngoài khơi Bắc Phi và Quần đảo Balearic ở Địa Trung Hải. Các vùng đất châu Phi gồm Ceuta, Melilla và Peñón de Vélez de latylesra, khiến Tây Ban Nha trở thành quốc gia châu Âu duy nhất có biên giới thực với một quốc gia châu Phi (Maroc).
Một số hòn đảo nhỏ ở Biển Alboran cũng là một phần của lãnh thổ Tây Ban Nha.
Đất liền của Tây Ban Nha giáp với phía nam và đông biển Địa Trung Hải; về phía bắc và đông bắc giáp Pháp, Andorra và Vịnh Biscay; về phía tây và tây bắc lần lượt là Bồ Đào Nha và Đại Tây Dương.
Tây Ban Nha có diện tích 505.990 km2; dân số 47,43 triệu người (năm 2020); Thủ đô và thành phố lớn nhất là Madrid.
Con người hiện đại đầu tiên đến Bán đảo Iberia vào khoảng 35.000 năm trước.
Các nền văn hóa Iberia cùng với các nền văn hóa Phoenicia, Hy Lạp (Ancient Greece), Celts và Carthage (Carthaginian Iberia) cổ đại đã phát triển trên bán đảo cho đến khi nằm dưới sự cai trị của La Mã vào khoảng năm 200 trước Công nguyên (TCN).
Vào cuối thời kỳ Đế chế Tây La Mã (Western Roman Empire, tồn tại năm 395–476/480), người Germanic và các bộ tộc liên minh đã di cư từ Trung Âu đến xâm chiếm Bán đảo Iberia và thiết lập các vương quốc tương đối độc lập ở phía tây của bán đảo. Một trong số họ là người Visigoth, đã hợp nhất tất cả các lãnh thổ độc lập còn lại trên bán đảo, bao gồm cả tỉnh Byzantine của Spania vào Vương quốc Visigothic (Visigothic Kingdom, tồn tại năm 418 – 721).
Vào đầu thế kỷ 8, Vương quốc Visigothic đã bị chinh phục bởi Vương quốc Hồi giáo Umayyad (Umayyad Caliphate, tồn tại năm 661–750, thủ đô là Damascus, Syria, Tây Á ngày nay). Một trong những tiểu vương quốc của Vương quốc Hồi giáo Umayyad là Tiểu vương quốc Cordoba (Emirate of Cordoba, tồn tại năm 756–929). Sự thành lập của Tiểu vương quốc này đánh dấu sự khỏi đầu của bảy trăm năm thống trị của người Hồi giáo tại vùng đất Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày nay.
Một số vùng đất Cơ đốc giáo ở phía bắc Bán đảo Iberia nằm ngoài sự cai trị của người Hồi giáo, cùng với sự xuất hiện của Đế chế Carolingian (Carolingian Empire, tồn tại năm 800–888) đã dẫn đến sự hình thành các tiểu vương quốc Cơ đốc giáo như León,
Castile, Aragon, Navarre và Bồ Đào Nha.
Hơn bảy thế kỷ, sự mở rộng về phía nam Bán đảo Iberia của các vương quốc này lên đến đỉnh điểm với việc Cơ đốc giáo xóa bỏ chính thể Hồi giáo cuối cùng, Vương quốc Granada (Emirate of Granada, tồn tại năm 1230–1492) vào năm 1492, cùng năm Christopher Columbus (nhà thám hiểm người Ý, 1451- 1506) đến Tân Thế giới.
Quá trình tập hợp chính trị giữa các tiểu vương quốc Cơ đốc giáo cũng diễn ra ngày sau đó. Vào cuối thế kỷ 15, chứng kiến sự hợp nhất giữa các tiểu vương quốc Castile và Aragon thành Vương quốc Công giáo Tây Ban Nha (Catholic Monarchs of Spain). Sự thống nhất với tiểu vương quốc Navarre diễn ra vào năm 1512.
Đế chế Tây Ban Nha (Spanish Empire/ Chế độ quân chủ Thiên chúa giáo Tây Ban Nha, tồn tại năm 1492–1976) đã liên minh với Vương quốc Bồ Đào Nha (Kingdom of Portugal, tồn tại năm 1139–1910) để thành lập Vương triều Hapsburg (Habsburg Spain, tồn tại năm 1516–1700).
Các nhà cai trị Habsburg đã đạt đến đỉnh cao về ảnh hưởng và quyền lực: Kiểm soát lãnh thổ bao gồm Châu Mỹ, Đông Ấn; các nước Spanish Netherlands, Bỉ, Luxembourg và một phần lãnh thổ hiện thuộc Ý, Pháp và Đức ở Châu Âu; Vương quốc Bồ Đào Nha (từ năm 1580 - 1640) và nhiều vùng lãnh thổ nhỏ khác như Ceuta và Oran ở Bắc Phi.
Giai đoạn lịch sử Tây Ban Nha này còn được gọi là " Thời đại khám phá " (Age of Discovery).
Vào đầu thời kỳ hiện đại, Tây Ban Nha là một trong những đế chế lớn nhất trong lịch sử, cũng như là một trong những đế chế toàn cầu đầu tiên; tạo ra một di sản văn hóa và ngôn ngữ lớn với hơn 570 triệu người Hispanophones), khiến tiếng Tây Ban Nha trở thành ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ), được nói nhiều thứ hai trên thế giới sau tiếng Quan Thoại Trung Quốc (Mandarin Chinese).
Tây Ban Nha là nơi có số lượng Di sản Thế giới được UNESCO công nhận lớn thứ tư thế giới. Tính đến tháng 7 năm 2021, Tây Ban Nha có tổng số 49 địa điểm được ghi trong danh sách, chỉ đứng sau Ý (58), Trung Quốc (56), Đức (51) và cùng với Pháp (49).
Ngày nay, Tây Ban Nha được chia thành 17 cộng đồng tự trị và 2 thành phố tự trị. Các cộng đồng tự trị (vùng, bang) được chia thành 50 tỉnh (khu vực).
Bản đồ Tây Ban Nha và vị trí thành phố Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Segovia là một trong 9 tỉnh và nằm tại phía nam của Cộng đồng tự trị Castile và León. Tỉnh lỵ là thành phố Segovia.
Segovia là biểu tượng của một thực tế lịch sử phức tạp.
Các khu phố, đường phố và nhà ở của Segovia được bố trí phù hợp với một cấu trúc xã hội, trong đó hệ thống phân cấp chính thể, xã hội được tổ chức và thống trị bởi những cộng đồng văn hóa khác nhau. Người Moors (bao gồm người Berber hay người Bắc phi sống tại thung lũng sông Nile, người châu Phi da đen, người Ả Rập có nguồn gốc Bắc Phi, những nhóm người này chinh phục Bán đảo Iberia trong gần 800 năm; tại thời điểm này, họ là những người Hồi giáo), Cơ đốc giáo và người Do Thái đã cùng tồn tại một thời gian dài trong thành phố thời Trung cổ và làm việc cùng nhau trong thời kỳ bùng nổ sản xuất ở thế kỷ 16.
Bằng chứng của quá trình văn hóa này có thể nhìn thấy qua số lượng lớn những di tích chính trong thành phố, nổi bật là Cầu cạn La Mã, có lẽ được xây dựng vào khoảng năm 50 trước Công nguyên. Công trình ấn tượng và được bảo quản tốt này với hai tầng mái vòm, là một phần khung cảnh tráng lệ của thành phố lịch sử Segovia.
Các di tích quan trọng khác như: Cung điện Alcázar, bắt đầu vào khoảng thế kỷ 11; Một số nhà thờ theo phong cách Romanesque;
Các cung điện quý tộc từ thế kỷ 15 và 16; Nhà thờ Gothic thế kỷ 16, nhà thờ cuối cùng được xây dựng ở Tây Ban Nha theo phong cách này; và Xưởng đúc tiền Hoàng gia.
Thị trấn cổ và Cầu dẫn nước Segovia; địa điểm: Cộng đồng tự trị Castile-Leon, Tây Ban Nha được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Segovia có một loạt các di tích, xét về vẻ đẹp và ý nghĩa lịch sử, là những mẫu mực và thực sự nổi bật, tiêu biểu là Cầu cạn La Mã (Aqueduct), Cung điện Alcáza và Nhà thờ Segovia; là tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
Tiêu chí (iii): Thị trấn cổ của Segovia là bằng chứng độc đáo, minh họa một thực tế lịch sử phức tạp thông qua cách bố trí đô thị và phát triển kiến trúc. Đó là một ví dụ điển hình về sự chung sống của những cộng đồng văn hóa khác nhau trong suốt một thời gian dài.
Tiêu chí (iv): Segovia cung cấp một ví dụ nổi bật về một quần thể kiến trúc đô thị phương Tây, được phát triển dựa trên một số truyền thống văn hóa đa dạng. Tất cả thành phần của môi trường xây dựng, từ kiến trúc cầu dẫn nước đến công trình tôn giáo và quân sự, đều thể hiện kỹ thuật và phong cách xây dựng phản ánh sự đa dạng văn hóa này.
Sơ đồ phạm vi Di sản Thị trấn cổ và Cầu dẫn nước Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Sơ đồ phạm vi Di sản Thị trấn cổ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Sơ đồ vị trí một số di tích chính tại Thị trấn cổ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Thị trấn cổ tại Segovia
Thị trấn cổ tại Segovia (Old Town of Segovia) chứa các công trình quan trọng nhất của thành phố gồm:
Cung điện Segovia
Cung điện Segovia (Alcázar of Segovia) nằm trên một mỏm đá tại giao của hai con sông gần dãy núi Guadarrama, sông Eresma và sông Clamores.
Đây là một trong những lâu đài - cung điện đặc biệt nhất ở Tây Ban Nha nhờ hình dáng giống như một mũi tàu.
Lâu đài Segovia ban đầu được xây dựng như một pháo đài La Mã, sau đó lại được sử dụng như một cung điện hoàng gia, một nhà tù tiểu bang, trường Cao đẳng pháo binh Hoàng gia và một Học viện quân sự. Hiện tại, công trình được sử dụng như một Bảo tàng và Thư viện quân sự.
Pháo đài La Mã xây dựng ban đầu đã bị phá hủy, ngoài nền móng, chỉ còn rất ít cấu trúc xây dựng.
Pháo đài được phục dựng lại vào thời Vương triều Hồi giáo Almoravid (Almoravid Dynasty, của người Berbers, tồn tại năm 1040 –1147).
Lâu đài được nâng cấp với hệ thống công sự bằng đá vào thời Alfonso VIII (trị vì năm 1158- 1214), vua của Vương triều Cơ đốc giáo Castile (Kingdom of Castile) và Toledo (Kingdom of Toledo).
Lâu đài Segovia là một trong những nơi cư trú ưa thích của những vị vua Vương triều Castile trong thời Trung Cổ, và một pháo đài quan trọng trong việc bảo vệ vương quốc.
Hầu hết các tòa nhà hiện tại được xây dựng bởi Gia tộc Trastámara (House of Trastámara), dòng tộc của các vị vua ở Tây Ban Nha và Ý.
Năm 1258, phần lớn công trình được xây dựng lại bởi Alfonso X (vua của Vương triều Castile và Toledo, trị vì năm 1252- 1248) và nâng cấp bởi John II (vua của Castile và Toledo, trị vì năm 1406- 1454). Tiếp đó, công trình được xây dựng bổ sung và nâng cấp vào các năm 1587; bị hỏa hoạn năm 1862, được tu bổ lại năm 1882.
Tổng mặt bằng Cung điện Segovia, Thị trấn cổ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Phối cảnh Cung điện Segovia, Thị trấn cổ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Sơ đồ mặt bằng Cung điện Segovia, Thị trấn cổ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Lâu đài Segovia, từ phía đông sang phía tây, gồm các hạng mục công trình chính sau:
Hào sâu (hình vẽ ký hiệu A - Ditch): Nằm tại phía đông Lâu đài, ngăn cách Lâu đài với khu vực dân cư bên ngoài.
Cầu rút (B – Drawbrige): Bắc qua hào sâu.
Lối vào chính Lâu đài (C - Main Entrance): Nằm chính giữa bức tường phía đông, được giới hạn bởi hai tháp tròn với mái nhọn nằm tại vị trí góc tường thành.
Tháp John II (D- Tower of John II): Nằm tại sân thượng. Từ đây có tầm nhìn bao quát toàn bộ thành phố. Tháp có cầu thang hẹp, dạng xoắn ốc với 156 bậc lên tới đỉnh. Tháp có mặt bằng hình khối như một khối hộp; có phân vị theo phương ngang chia tháp thành 3 tầng; trên đỉnh tháp nhô ra 12 tháp tròn nhỏ trang trí, tạo cho tháp có một hình tượng rất đặc biệt.
Phối cảnh Tháp John II, Lâu đài Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Sảnh vào (E- Entrance Vestible): Từ đây dẫn vào sân trong thứ nhất, còn gọi là sân Duyệt binh. Bao quanh sân là những dãy nhà cao 2 tầng cùng 1 tầng áp mái và 1 tầng hầm.
Kho bạc (F- Treasury Rooms): Là hai phòng cạnh sân trong.
Bảo tàng Vũ khí của Đại học Hoàng gia (G1 - Royal College of Arms Museum): Nằm tại tầng 1 và Căn hộ Nữ hoàng (G2 – Ladies Apartments above): Nằm tại tầng 2.
Sân duyệt binh (H- Parade/Weapons Patio): Với các hàng 15 cột cao 2 tầng bao quanh 3 mặt sân (mặt nam không có cột). Cột có tiết diện hình chữ nhật, đầu cột không có trang trí. Cột tầng 1 có vòm đỡ sàn. Giữa sân có một đài phun nước nhỏ.
Phòng lò sưởi (I - Chimney Room): Nằm tại phía bắc sân Duyệt binh. Đồ nội thất có từ thế kỷ 16. Trên các bức tường có bức chân dung của Philip II và một bức khác của Philip III, một tấm thảm Flemish thế kỷ 16 với chủ đề về các sự tích tôn giáo và hình ảnh lâu đài Alcázar.
Phòng ngai vàng (J- Throne Room): Nơi đặt ngai vàng với phù hiệu của Vương triều. Trên bức tường là chân dung các vị vua, nữ hoàng.
Phòng có cửa sổ trang trí (K- Room of the Mullioned Windows): Nằm tại phía bắc sân Duyệt binh; được xây dựng vào thời Alfonso VIII với các cửa sổ kép. Phía trên cửa ra vào có trang trí một biểu tượng vòng tròn kiểu Mudéjar (của người Hồi giáo tại Iberia vào cuối thời kỳ Trung cổ). Bên trong lưu giữ các bộ áo giáp kiểu Đức từ thế kỷ 15.
Hội trường (L - Alabaster Hall/ Hall of the Galley): Trần nhà có dạng như lòng thuyền, được xây dựng vào năm 1412. Trong phòng có hai cửa sổ kính màu và một bức tường được trang trí bằng một bức tranh mô tả lễ đăng quang của nữ hoàng Vương triều Castile và León ở nhà thờ San Miguel tại Segovia.
Phòng ngủ Hoàng gia (M- Royal Bedroom): Nằm tại phía bắc sân Duyệt binh; là nơi đặt giường ngủ với gấm dệt bằng vàng.
Phòng dứa (N – Pineapple Room): Được gọi tên theo họa tiết trang trí trên trần nhà Artesonado, là thuật ngữ để chỉ loại trần gỗ được ghép phức tạp với các thanh phụ đan xen xà đỡ mái tạo thành hoa văn trang trí hình học, có nhiều mảnh giống như quả dứa.
Phòng của các vị vua (O- Kings Hall): Nơi đặt tượng các vị vua Vương triều Asturias, León và Castile; Tại đây có một số bức tranh chân dung vua và hoàng hậu.
Sân trong thứ nhất - Sân duyệt binh, Lâu đài Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Phòng lò sưởi, Lâu đài Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Phòng ngai vàng, Lâu đài Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Phòng có cửa sổ trang trí và trưng bày bộ áo giáp, Lâu đài Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Hội trường, Lâu đài Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Phòng của các vị vua, Lâu đài Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Sân trong (P - Clock Yard): Đây là sân trong thứ hai của Lâu đài; được giới hạn bởi bức tường của các khối phòng cao 2 tầng cùng 1 tầng áp mái và 1 tầng hầm.
Nhà nguyện (Q- Chapel): Nằm tại phía bắc Sân trong, kề liền với Phòng của các vị vua.
Phòng ngủ (R- Cord/Gowning Room): Nằm phía sau Nhà nguyện và Phòng trang điểm của nữ hoàng (S - Queens Vanity).
Phòng trưng bày vũ khí (T – Armory; in the Tower of Homage): Nằm bên trong Tháp Homage; là nơi lưu giữ bộ sưu tập vũ khí từ thời xa xưa của gia tộc Trastámara. Tháp Homage được nhấn mạnh bởi 4 tháp nhỏ với mái nhọn tại 4 góc; là điểm nhấn tại phía tây của Lâu đài.
Phòng bán nguyệt đón gió tây (U- Semicircular Room of the West Wind): Khối phòng này gắn với Tháp Homage, tạo điểm nhấn cho tháp. Trên đỉnh của Phòng bán nguyệt là một mái tháp nhọn với bố cục chiều cao bằng với chiều cao của Tháp John II tại phía đông.
Sân thượng (V- Well Terrace): Là sân phía tây của Lâu đài với tầm nhìn rộng ra thung lũng xung quanh. Trên mặt sân là một vườn hoa có bố cục theo kiểu vườn hình học.
Sân trong thứ hai, Lâu đài Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Phòng ngủ Hoàng gia, Lâu đài Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Phòng trưng bày vũ khí của gia tộc Trastámara, Lâu đài Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Nhà thờ Segovia
Nhà thờ Segovia (Segovia Cathedral) là nhà thờ Công giáo La Mã tọa lạc tại quảng trường chính (Plaza Mayor) của thành phố Segovia.
Nhà thờ, dành riêng cho Đức Trinh Nữ Maria, được xây dựng từ năm 1525-1577, theo phong cách Gothic muộn (late Gothic style).
Tổng mặt bằng Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Phối cảnh tổng thể Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Sơ đồ mặt bằng Nhà thờ Segovia thể hiện các giai đoạn xây dựng; Sơ đồ mặt cắt ngang và cắt dọc;
Castile-Leon, Tây Ban Nha
Sơ đồ mặt bằng Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Quần thể Nhà thờ Segovia có 3 cửa vào chính: Puerta de San Frutos (hình vẽ ký hiệu 4) tại phía đông bắc; Puerta de San Geroteo (hình vẽ ký hiệu 15) tại phía tây nam, nằm tại đầu của Gian ngang; Puerta de Santa Maria (hình vẽ ký hiệu 29), nằm tại đầu phía tây bắc.
Quần thể Nhà thờ có 3 khối nhà chính: Khối Nhà thờ; Khối Nhà nguyện tại phía nam; Khối Tu viện tại phía tây nam.
Khối Nhà thờ có chiều rộng 50m, gồm: 3 nhịp, nhịp giữa rộng và cao, hai nhịp hai bên nhỏ và thấp hơn; dọc hai bên nhà là 13 Phòng nguyện (Chapels/Capilla, hình vẽ ký hiệu 4- 5 và 15 – 25) hình chữ nhật.
Khối Nhà thờ có chiều dài 105m, gồm 7 bước của gian chính và một khối bán tròn của Hậu đường (Apse). Bao quanh Hậu đường là 7 phòng nguyện (hình vẽ ký hiệu 6- 12), có hình dáng một hốc với 5 bức tường bao quanh.
Gian chính Hội trường (Atrium, hình vẽ ký hiệu 2, 3) giao với Gian ngang (Transept) tạo cho mặt bằng Nhà thờ có hình một cây Thánh giá (chữ thập). Hình chữ thập này nhô cao lên so với mái của các gian bên. Mái vòm tròn tại điểm giao của cây Thánh giá có chiều cao đến 33m.
Mái gian Hội trường và Hậu đường được thiết kế theo phong cách Gothic với kết cấu vòm trụ tường (Flying Buttress), là một hệ kết cấu khung phẳng, dạng nửa vòm, nhận tải trọng xiên từ mái, tải trọng gió chuyển thành tải trọng đứng truyền xuống vách trụ tường phía dưới. Trên đỉnh mỗi trụ tường là một tháp nhọn trang trí.
Cửa Puerta de Santa Maria, bên cạnh là Tháp chuông Nhà nguyện; Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Cửa Puerta de San Frutos (bên phải ảnh) và không gian Hậu đường, Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Cửa Puerta de San Geroteo; bên trái ảnh là Khối Tu viện với Sân trong và Tháp chuông; bên phải ảnh là Khối Nhà nguyện; Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Nội thất gian Hội trường, Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Không gian dọc theo gian chính Hội trường, Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Trang trí trên vòm mái, Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Nội thất gian Hậu đường với hành lang phía trước các Phòng nguyện, Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Trang trí kính bên trong Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Khối Nhà nguyện tại phía nam: Có mặt bằng hình chữ nhật, như là phần kéo dài của Gian ngang (Transept), là 2 phòng nguyện lớn (hình vẽ ký hiệu 13, 14). Trên đỉnh của phòng nguyện ký hiệu 14 có một mái vòm dạng bát giác.
Khối Tu viện (Claustro, hình vẽ ký hiệu 26) tại phía tây nam: Bao gồm một hành lang bao quanh một sân trong, Phòng nguyện dạng tháp (hình vẽ ký hiệu 27) và Nhà họp (Sala Capitular, hình vẽ ký hiệu 28).
Tháp Phòng nguyện cao 88m. Đỉnh tháp bằng đá hiện tại có niên đại từ năm 1614, được dựng lên sau một trận hỏa hoạn lớn. Ngọn tháp theo phong cách Gothic và là tháp chuông cao nhất ở Tây Ban Nha thời bấy giờ.
Quần thể Nhà thờ Segovia còn là nơi lữu giữ những hầm mộ, báu vật, như một trong những cuốn sách in đầu tiên được xuất bản ở Tây Ban Nha: Sinodal de Aguilafuente; Các bức tượng, chạm khắc, tranh sự tích tôn giáo.
Hành lang bao quanh sân trong Khối tu viện, Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Sân trong Khối tu viện, Nhà thờ Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Những bức tường thành tại Segovia
Những bức tường thành tại Segovia (Walls of Segovia/Murallas de Segovia) là phần còn lại của Bức tường thành được xây dựng suốt thời Trung cổ bao quanh Segovia.
Bức tường thành Segovia thời Vương quốc Castilian (Kingdom of Castile, tồn tại năm 1065–1833) dài khoảng 2.250m, với chiều cao trung bình là 9m và độ dày trung bình là 2,5m,
Bức tường thành được xây dựng từ nhiều vật liệu khác nhau, có niên đại từ thế kỷ 11,12, và được tu sửa lớn trong các thế kỷ tiếp theo.
Bức tường thành Segovia gắn liền với các tháp quan sát (Mirador) và cổng (Puerta).
Một số đoạn tường thành với lỗ châu mai và tháp canh hình chữ nhật, Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Một số đoạn tường thành với tháp canh hình tròn và chữ nhật, Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Tại đây có hai di tích cổng quan trọng: Cổng Puerta de Santiago và Cổng Puerta de San Andrés.
Cổng Puerta de Santiago (Gate of Saint James) nằm tại phía bắc của Những bức tường thành Segovia. Đây là cổng được bảo tồn tốt nhất. Hiện tại, có thể thấy những giai đoạn xây dựng bổ sung theo thời gian: Mặt tiền phía Tây có từ thế kỷ 13; Mặt tiền phía Đông với các khối đá granit và phần còn lại của khung trang trí có niên đại cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17.
Tên của cổng có nguồn gốc gắn với nhà thờ cũ của Santiago, đã bị phá bỏ vào năm 1836.
Cổng được xây dựng theo phong cách Mudéjar (Mudéjar Art/ Mudéjar Style). Đây là một loại hình trang trí sử dụng trong các vương quốc Cơ đốc giáo tại Bán đảo Iberia, chủ yếu giữa thế kỷ 13 và 16. Nó được áp dụng cho các phong cách kiến trúc Romanesque,
Gothic và Phục hưng, khởi nguồn từ những họa tiết Hồi giáo đã phát triển tại Bán đảo Iberia.
Cổng có một vòm hình móng ngựa đặc trưng, mở ra khu vực lân cận San Marcos. Lối đi trong vòm có trang trí bức tượng Đức Mẹ Đồng trinh.
Cổng Puerta de San Andrés (Gate of Saint James) nằm tại phía nam của Những bức tường thành Segovia. Cổng có hai tháp, một mặt bằng hình vuông và một hình đa giác, và một cửa vòm. Cổng được trang trí các cửa sổ, đường phào chỉ, trụ lỗ châu mai hình chóp và các tấm huy chương trang trí.
Người ta cho rằng, Cổng được thực hiện bởi thợ đá bậc thầy Juan Guas (nghệ sĩ, kiến trúc sư Tây Ban Nha, gốc Pháp, năm 1430/1433 – 1496).
Vào cuối thế kỷ 19, một phần tháp đa giác bị sụp đổ. Sau đó nó đã được khôi phục lại như cũ vào năm 1947.
Vị trí của hai cổng thành chính: Cổng Puerta de Santiago (phía trên ảnh) và Cổng Puerta de San Andrés (phía dưới ảnh);
Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Cổng Puerta de Santiago, mặt tiền phía tây; Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Cổng Puerta de San Andrés, mặt tiền hướng đông; Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Xưởng đúc tiền Hoàng gia tại Segovia
Xưởng đúc tiền Hoàng gia (Coining House/ Royal Mint/ La Monneda/ Real Ingenio de Segovia) tại Segovia được Philip II (vua Tây Ban Nha, trị vì năm 1556- 1598) xây dựng vào cuối những năm 1580.
Công trình La Monneda được xây dựng tại vị trí trước đây sử dụng để xay ngũ cốc và sản xuất giấy, nằm cạnh sông Eresma, tại phía đông bắc của Lâu đài Segovia (Alcázar of Segovia).
Xưởng đúc tiền nằm trong một quần thể gồm các công trình: Tòa nhà hành chính dịch vụ, xưởng đúc, tòa nhà của quân đội bảo vệ…
Xưởng đúc tiền xu (và huy chương) sử dụng công nghệ cán và đúc với sự tham gia của các máy móc và thiết bị vận hành bằng bánh xe thủy lực. Thời bấy giờ, công nghệ này chỉ mới xuất hiện ở một số thành phố Châu Âu và là nhà máy cơ giới hóa, sản xuất công nghiệp hàng loạt đầu tiên tại Tây Ban Nha.
Xưởng được thiết kế bởi Juan de Herrera (kiến trúc sư, nhà toán học và hình học người Tây Ban Nha, năm 1530- 1597, là kiến trúc sư kiệt xuất nhất của Tây Ban Nha trong thế kỷ 16). Ông đã cộng tác với các kỹ thuật viên người Đức để thiết kế một nhà máy đúc tiên phong thời bấy giờ.
Quy mô của công trình được cho là biểu tượng quyền lực của vương triều.
Phối cảnh Xưởng đúc tiền Hoàng gia; Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha; phía sau ảnh là Lâu đài Segovia
Mô hình Xưởng đúc tiền Hoàng gia; Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Sơ đồ mặt bằng Xưởng đúc tiền Hoàng gia; Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Quy trình công nghệ đúc tiền trải qua các công đoạn: Giám định và cân đo quặng; Nấu luyện (Smelting, hình vẽ ký hiệu 11); Kiểm tra chất lượng hợp kim (Assay, hình vẽ ký hiệu 12); Lò đúc (Forge, hình vẽ ký hiệu 6); Cán sản phẩm đúc mỏng dần cho đến bằng chiều dày đồng xu (Coin Rolling mili by roller dies, hình vẽ ký hiệu 4; Rolling Mill, hình vẽ ký hiệu 5); Cắt tạo hình đồng xu (Blank cutting, hình vẽ ký hiệu 3); Khắc tạo trang trí trên mặt đồng xu và hoàn thiện (Engraving office, hình vẽ ký hiệu 2); Thu gom các vật liệu thừa để nấu chảy lại (Scraps, hình vẽ ký hiệu 10).
Động cơ cho máy cán lấy từ 4 bánh xe thủy lực quay bằng sức nước. Nguồn nước cấp nhờ hệ thống thủy lợi, bao gồm đập dâng, đập tràn kênh dẫn nước. Công nghệ trên được cập nhật vào thế kỷ 18 với sự ra đời của máy ép hơi nước.
Lần đúc cuối cùng tại xưởng là vào năm 1869.
Từ năm 1878, công trình được bán và chuyển đổi thành một nhà máy sản xuất bột mì.
Việc sản xuất bột mì tiếp tục cho đến 1967. Tòa nhà bị bỏ hoang và được thành phố mua lại vào năm 1989.
Năm 2007, công trình được phục hồi.
Ngày nay, Xưởng đúc tiền Hoàng gia Segovia là viên ngọc quý của Xưởng đúc tiền Tây Ban Nha và được coi là di tích kiến trúc công nghiệp lâu đời nhất còn tồn tại trên thế giới.
Xưởng đúc tiền Hoàng gia trở thành một bảo tàng dành riêng cho tiền xu, di sản công nghiệp và gắn với di tích Cầu dẫn nước nổi tiếng của Segovia.
Lối vào Xưởng đúc tiền Hoàng gia; Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Động cơ nước cho máy cán thủy lực, Xưởng đúc tiền Hoàng gia; Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
Mô hình phục dựng bên trong phòng cán tạo đồng xu, Xưởng đúc tiền Hoàng gia; Segovia, Castile-Leon, Tây Ban Nha
|