
Thông tin chung:
Công trình: Alhambra, Generalife và Albayzín (Alhambra, Generalife and Albayzín)
Địa điểm: Granada, Cộng đồng tự trị Andalusia, Spain (N37 10 36.012 W3 35 39.984)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản 450ha; diện tích vùng đệm 67ha.
Năm hình thành:
Giá trị: Di sản thế giới (năm 1984, gia hạn năm 1994, hạng mục i, iii, iv)
Tây Ban Nha (Spain) là một quốc gia ở Tây Nam Châu Âu với một số vùng lãnh thổ tại eo biển Gibraltar và Đại Tây Dương.
Lãnh thổ lục địa Châu Âu của Tây Ban Nha nằm trên Bán đảo Iberia (Iberian Peninsula, góc tây nam châu Âu, gồm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Andorra, một phần nhỏ của Pháp và Gibraltar, lãnh thổ hải ngoại của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland).
Tây Ban Nha cũng bao gồm hai quần đảo: Quần đảo Canary ngoài khơi Bắc Phi và Quần đảo Balearic ở Địa Trung Hải. Các vùng đất châu Phi gồm Ceuta, Melilla và Peñón de Vélez de latylesra khiến Tây Ban Nha trở thành quốc gia châu Âu duy nhất có biên giới thực với một quốc gia châu Phi (Maroc).
Một số hòn đảo nhỏ ở Biển Alboran cũng là một phần của lãnh thổ Tây Ban Nha.
Đất liền của Tây Ban Nha giáp với phía nam và đông biển Địa Trung Hải; về phía bắc và đông bắc giáp Pháp, Andorra và Vịnh Biscay; về phía tây và tây bắc lần lượt là Bồ Đào Nha và Đại Tây Dương.
Tây Ban Nha có diện tích 505.990 km2; dân số 47,43 triệu người (năm 2020); Thủ đô và thành phố lớn nhất là Madrid.
Con người hiện đại đầu tiên đến Bán đảo Iberia vào khoảng 35.000 năm trước.
Các nền văn hóa Iberia cùng với các nền văn hóa Phoenicia, Hy Lạp (Ancient Greece), Celts và Carthage (Carthaginian Iberia) cổ đại đã phát triển trên bán đảo cho đến khi nằm dưới sự cai trị của La Mã vào khoảng năm 200 trước Công nguyên (TCN).
Vào cuối thời kỳ Đế chế Tây La Mã (Western Roman Empire, tồn tại năm 395–476/480), người Germanic và các bộ tộc liên minh đã di cư từ Trung Âu đến xâm chiếm Bán đảo Iberia và thiết lập các vương quốc tương đối độc lập ở phía tây của bán đảo. Một trong số họ là người Visigoth, đã hợp nhất tất cả các lãnh thổ độc lập còn lại trên bán đảo, bao gồm cả tỉnh Byzantine của Spania vào Vương quốc Visigothic (Visigothic Kingdom, tồn tại năm 418 – 721).
Vào đầu thế kỷ 8, Vương quốc Visigothic đã bị chinh phục bởi Vương quốc Hồi giáo Umayyad (Umayyad Caliphate, tồn tại năm 661–750, thủ đô là Damascus, Syria, Tây Á ngày nay).
Một số vùng đất Cơ đốc giáo ở phía bắc Bán đảo Iberia nằm ngoài sự cai trị của người Hồi giáo, cùng với sự xuất hiện của Đế chế Carolingian (Carolingian Empire, tồn tại năm 800–888) đã dẫn đến sự hình thành các tiểu vương quốc Cơ đốc giáo như León, Castile, Aragon, Navarre và Bồ Đào Nha.
Hơn bảy thế kỷ, sự mở rộng về phía nam Bán đảo Iberia của các vương quốc này lên đến đỉnh điểm với việc Cơ đốc giáo xóa bỏ chính thể Hồi giáo cuối cùng, Vương quốc Granada (Emirate of Granada, tồn tại năm 1230–1492) vào năm 1492, cùng năm Christopher Columbus (nhà thám hiểm người Ý, 1451- 1506) đến Tân Thế giới.
Quá trình tập hợp chính trị giữa các tiểu vương quốc Cơ đốc giáo cũng diễn ra ngày sau đó. Vào cuối thế kỷ 15, chứng kiến sự hợp nhất giữa các tiểu vương quốc Castile và Aragon thành Vương quốc Công giáo Tây Ban Nha (Catholic Monarchs of Spain). Sự thống nhất với tiểu vương quốc Navarre diễn ra vào năm 1512.
Đế chế Tây Ban Nha (Spanish Empire/ Chế độ quân chủ Thiên chúa giáo Tây Ban Nha, tồn tại năm 1492–1976) đã liên minh với Vương quốc Bồ Đào Nha (Kingdom of Portugal, tồn tại năm 1139–1910) để thành lập Vương triều Hapsburg (Habsburg Spain, tồn tại năm 1516–1700).
Các nhà cai trị Habsburg đã đạt đến đỉnh cao về ảnh hưởng và quyền lực: Kiểm soát lãnh thổ bao gồm Châu Mỹ, Đông Ấn; các nước Spanish Netherlands, Bỉ, Luxembourg và một phần lãnh thổ hiện thuộc Ý, Pháp và Đức ở Châu Âu; Vương quốc Bồ Đào Nha (từ năm 1580 - 1640) và nhiều vùng lãnh thổ nhỏ khác như Ceuta và Oran ở Bắc Phi.
Giai đoạn lịch sử Tây Ban Nha này còn được gọi là " Thời đại khám phá " (Age of Discovery).
Vào đầu thời kỳ hiện đại, Tây Ban Nha là một trong những đế chế lớn nhất trong lịch sử, cũng như là một trong những đế chế toàn cầu đầu tiên; tạo ra một di sản văn hóa và ngôn ngữ lớn với hơn 570 triệu người Hispanophones), khiến tiếng Tây Ban Nha trở thành ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ), được nói nhiều thứ hai trên thế giới sau tiếng Quan Thoại Trung Quốc (Mandarin Chinese).
Tây Ban Nha là nơi có số lượng Di sản Thế giới được UNESCO công nhận lớn thứ ba thế giới. Tính đến tháng 7 năm 2019, Tây Ban Nha có tổng số 48 địa điểm được ghi trong danh sách, chỉ đứng sau Trung Quốc (55) và Ý (55).
Ngày nay, Tây Ban Nha được chia thành 17 cộng đồng tự trị và 2 thành phố tự trị. Các cộng đồng tự trị (vùng, bang) được chia thành 50 tỉnh (khu vực).
Granada là thủ phủ của tỉnh Granada, thuộc Cộng đồng tự trị Andalusia (diện tích 87268km2, dân số năm 2016 khoảng 8,3 triệu người), nằm tại miền nam Tây Ban Nha.
Thành phố Granada nằm ở chân dãy núi Sierra Nevada, nơi hợp lưu của 4 con sông là Darro, Genil, Monachil và Beiro, nằm ở độ cao trung bình 738m so với mực nước biển. Dân số của thành phố là 232 ngàn người (năm 2018).
Ngày nay, thành phố Granada là một trong những điểm du lịch chính tại Tây Ban Nha, trong đó có các di tích lịch sử Hồi giáo nổi tiếng như Alhambra, Generalife và Albayzín thời Vương triều Nasrid (Nasrid Dynasty), là triều đại Hồi giáo cuối cùng ở Bán đảo Iberia.

Bản đồ Tây Ban Nha và vị trí của thành phố Granada

Phạm vi Tiểu vương quốc Granada (Emirate Granada) tồn tại năm 1230 – 1492
Vương triều Nasrid (với khoảng 30 đời vua) cai trị Tiểu quốc vương quốc Granada (Emirate Granada, tồn tại năm 1230 – 1492). Bằng chứng rõ ràng về triều đại Nasrid là Quần thể cung điện Alhambra, Khu nhà vườn Generalife và Khu phố cổ Albayzín, được xây dựng dưới thời cai trị của họ tại kinh đô Granada.
Di tích Alhambra, Generalife và Albayzín nằm trên hai ngọn đồi liền kề, ngăn cách bởi sông Darro. Alhambra và Generalife tại phía nam sông và Albayzín tại phía bắc sông.
Alhambra, Generalife nằm nhô lên trên khu dân cư Albayzín dưới chân đồi; nơi lưu giữ những gì còn sót lại của một thành phố Hồi giáo thời Trung cổ tại Tây Âu.
Cung điện Alhambra với sự định cư liên tục theo thời gian, hiện là lâu đài cổ kính duy nhất được bảo tồn của thời kỳ Hồi giáo; là ví dụ tốt nhất của nghệ thuật kiến trúc và trang trí thời Vương triều Nasrid.
Khu nhà vườn Generalife, nơi ở nông thôn của hoàng gia và trang trại trồng rau, là đại diện cho một trong số ít khu vực nông nghiệp có hiệu suất thời Trung cổ. Các công trình này được tạo ra nhờ kỹ thuật thủy lợi đã có tại vùng Al-Ándalus (trên bán đảo Iberia, thuộc sự cai trị của người Hồi giáo). Song, các công nghệ thủy lợi này được thiết lập tốt tại Cung điện Alhambra, Khu nhà vườn Generalife và hiện vẫn thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, khảo cổ học.
Alhambra và Generalife là những minh họa tốt nhất về một quần thể đô thị tích hợp được yếu tố kiến trúc với cảnh quan; vườn cây với cơ sở hạ tầng thủy lực độc đáo và đã có ảnh hưởng rộng khắp ra khu vực xung quanh.
Khu dân cư Albayzín, nơi tạo nên nguồn gốc của Thành phố Granada, là một di sản quy hoạch và kiến trúc đô thị phong phú của người Moorish (cư dân Hồi giáo tại khu vực Maghreb, bán đảo Iberia, Sicily và Malta thời Trung cổ). Trong đó, các tòa nhà Hồi giáo xây dựng dưới thời Vương triều Nasrid và công trình xây dựng theo truyền thống Cơ đốc giáo cùng tồn tại một cách hài hòa. Phần lớn ý nghĩa của Albayzín nằm ở kiểu quy hoạch đô thị thời Trung cổ với những con phố hẹp, quảng trường nhỏ, những ngôi nhà tương đối khiêm tốn theo phong cách Hồi giáo (Moorish) và phong cách bản địa vùng Andalusia.
Khu dân cư Albayzín là một trong những minh họa tốt nhất về quy hoạch thị trấn của người Hồi giáo (Moorish), được làm phong phú bởi những đóng góp của người Cơ đốc giáo trong thời kỳ Phục hưng Tây Ban Nha và Baroque.

Quốc huy của Vương triều Hồi giáo Nasrid, Vương quốc Granad, trên một bức tường ở Cung điện Alhambra, Tây Ban Nha
Di tích Alhambra, Generalife và Albayzín, tỉnh Granada, vùng Andalusia, Tây Ban Nha được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Alhambra, Generalife và Albayzín là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
Alhambra và Generalife chứa đựng các yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật được biết tới của thế giới Hồi giáo (Hispano) thời bấy giờ, trên cơ sở một hệ thống tỷ lệ. Tại đây, tất cả việc xây dựng, trang trí đều dựa trên giá trị thẩm mỹ, sử dụng thông minh nước và thảm thực vật. Cùng với truyền thống Hồi giáo, kể từ năm 1492, Hoàng gia đã nhận được những đề xuất tiên tiến nhất về quy hoạch và kiến trúc cung điện phục vụ nhu cầu chính trị và nghệ thuật tạo hình theo chủ nghĩa nhân văn phương Tây (Western Humanism).
Khu phố Albayzín là hình ảnh minh họa được bảo tồn tốt nhất của thành phố Hồi giáo ở miền Nam Tây Ban Nha, đặc biệt được hình thành dưới triều đại Nasrid. Albayzín còn được làm giàu bởi những đóng góp của văn hóa Phục hưng Cơ đốc giáo và Baroque Tây Ban Nha. Đây là sự pha trộn đặc biệt và hài hòa giữa 2 giá trị truyền thống, tạo nên một hình thức và phong cách văn hóa đặc sắc.
Tiêu chí (iii): Vật liệu xây dựng ở Alhambra và Generalife là đặc biệt độc đáo với việc sử dụng thạch cao, gỗ và gốm sứ làm các yếu tố trang trí. Cùng với việc sử dụng văn tự Ả Rập, các công trình tại đây đã được biến đổi thành một quần thể “Kiến trúc biết nói” (Talking Architecture), có nội dung liên quan đến thế giới tôn giáo, chính trị và thơ ca của Vương triều Nasrid, được bảo tồn và làm phong phú bởi những ví dụ điển hình nhất về tính nhân văn và sáng tạo nghệ thuật thời Phục hưng Tây Ban Nha. Quần thể kiến trúc Alhambra và Generalife là một ví dụ sống động về sự pha trộn giữa truyền thống nghệ thuật phương Đông và phương Tây.
Albayzín đại diện cho một mô hình thu nhỏ về sự huy hoàng văn hóa vùng Andalusia tại Granada. Nền văn hóa này khởi nguồn từ Vương triều Zirid (Zirid Dynasty, tại Maghreb, tây bắc châu Phi, tồn tại năm 972–1148) lan truyền đến Vương triều Nasrid (Nasrid Dynasty, tồn tại năm 1230 – 1492).
Sự vĩ đại của nền văn hóa tiến tiến tại vùng Andalusia, bắt nguồn từ Albayzín với kiến thức khoa học tuyệt vời, phong tục xã hội cũng như ẩm thực đặc sắc và điều kiện vệ sinh được coi trọng, đã có ảnh hưởng đến tất cả các nền văn hóa châu Âu trong giai đoạn tiếp sau.
Tiêu chí (iv): Alhambra và Generalife là minh chứng đặc biệt cho Hồi giáo Tây Ban Nha vào thế kỷ 13 - 15. Chúng tạo thành một ví dụ nổi bật về dinh thự Hồi giáo nguy nga thời Trung cổ. Những di tích này không bị phá hủy cũng như không bị thay đổi bởi thăng trầm lịch sử như các công trình khác ở vùng Maghreb lân cận (phía bắc Châu Phi với các quốc gia Maroc, Algérie, Tunisia, Libya).
Kiến trúc và cảnh quan đô thị của Albayzín là ví dụ đáng chú ý nhất về sự tồn tại của văn hóa Andalusi kéo dài đến thời đại ngày nay. Đây là minh chứng cho khu định cư Hồi giáo (Moorish) thời Trung cổ, nơi không bị thay đổi dù bị điều chỉnh để phù hợp với lối sống của người Cơ đốc giáo sau này. Các đặc điểm chính của các khu phố cổ, về hình thức, vật liệu, màu sắc, được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Nơi đây trở thành một ví dụ đáng chú ý về một thị trấn của người Hồi giáo thế kỷ 13 – 15 đã hợp nhất được với quy hoạch thị trấn thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20.

Phạm vi Di sản Alhambra, Generalife và Albayzín, tỉnh Granada, vùng Andalusia, Tây Ban Nha
Alhambra
Alhambra là một quần thể cung điện và pháo đài.
Quần thể Cung điện Alhambra nằm trên một gò núi cao, thống trị cảnh quan và nhìn xuống phía đông thị trấn Albayzín, chia thành rất nhiều bậc nền, kết nối các cụm công trình với nhau bằng bậc thang hoặc đường dốc.
Pháo đài Alhambra được bao quanh bởi các bức tường thành, tháp canh và cổng thành. Bên trong pháo đài là cung điện và công trình phụ trợ.
Ban đầu, đây chỉ là một pháo đài quy mô nhỏ, được xây dựng vào năm 889, trên tàn tích của một công sự La Mã thời cổ đại. Công trình phần lớn bị bỏ hoang cho đến khi được xây dựng lại vào giữa thế kỷ 13 bởi vua (Sultan) Mohammed ben Al-Ahmar (Vương triều Nasrid thứ nhất, Tiểu quốc Granada, trị vì năm 1238 – 1273), tạo thành lâu đài với các bức tường phòng thủ bao quanh.
Lâu đài được chuyển đổi thành Cung điện hoàng gia vào năm 1333 bởi vua Yusuf I (Vương triều Nasrid, trị vì năm 1333–1354).
Trong suốt thời gian trị vì của Vương triều Nasrid (năm 1230–1492), Quần thể cung điện tạo thành một khu phố hoàng gia với các cung điện, tòa tháp và nhiều nhà tắm.
Sau khi kết thúc giai đoạn Christian Reconquista (tái chinh phục Bán đảo Iberia của người Cơ đốc giáo) cùng với việc mở rộng vương quốc Kito giáo khắp Bán đảo Iberia và sự sụp đổ của Vương triều Nasrid ở Tiểu quốc Granada vào năm 1492, Cung điện hoàng gia Hồi giáo Alhambra trở thành Cung điện hoàng gia Công giáo (Royal Court), là nơi ở của Vua Ferdinand và vợ là Nữ hoàng Isabella (trị vì năm 1474- 1504), cai trị một liên minh giữa hai vương triều, được gọi là Nhà nước Quân chủ Công giáo Tây Ban Nha (Catholic Monarchs of Spain). Đây cũng là nơi Christopher Columbus (nhà thám hiểm và hàng hải người Ý, năm 1451 – 1506, hoàn thành 4 chuyến hành trình qua Đại Tây Dương, mở đường khai phá châu Âu và thuộc địa hóa châu Mỹ) nhận được sự tài trợ và chứng thực của Nhà nước Quân chủ Công giáo Tây Ban Nha cho các chuyến thám hiểm của mình. Cung điện đã được thay đổi một phần theo phong cách thời Phục hưng.
Vào năm 1526, Charles V, Hoàng đế La Mã Thần thánh (Holy Roman Emperor, trị vì năm 1530 – 1556) đã cho xây dựng một cung điện mới, phù hợp hơn với Hoàng đế La Mã Thần thánh Cơ đốc giáo, theo phong cách Mannerism (còn gọi là Hậu Phục hưng). Song công trình không bao giờ được hoàn thành bởi các cuộc chiến tranh.
Cuối cùng, Cung điện Hồi giáo Alhambra xưa tiếp tục là nơi phục vụ cho các vị vua Cơ đốc giáo của Vương triều Castile (Kingdom of Castile, tồn tại năm 1065–1230 / 1715, tại phía bắc của Bán đảo Iberia).
Bất chấp sự lãng quên trong thời gian dài, Cung điện Alhambra vẫn tồn tại như một ví dụ điển hình về nghệ thuật Hồi giáo trong giai đoạn cuối cùng ở châu Âu. Hầu hết các tòa nhà trong Cung điện được xây dựng từ một hệ thống tỷ lệ của hình tứ giác, với tất cả các phòng đều mở ra không gian trung tâm. Cung điện đạt được kích thước như hiện tại chỉ đơn giản bằng cách bổ sung dần các hình tứ giác mới, được kết nối với nhau bởi sảnh, hành lang và cùng được thiết kế theo một nguyên tắc hay triết lý: Đây là một "Thiên đường trên trái đất" (Paradise).
Alhambra ngày nay có chiều dài khoảng 740m, chiều rộng lớn nhất 205m với diện tích khoảng 14,2ha.
Cung điện Alhambra có những trang trí rất đặc sắc.
Các cột đỡ mái vòm, đài phun nước và hồ phản chiếu đã được sử dụng để tăng thêm tính phức tạp về mặt thẩm mỹ và chức năng của quần thể.
Hình thức bên ngoài công trình đơn giản, tiết kiệm, kiên cố theo kiểu pháo đài.
Nắng và gió được thừa nhận như một yếu tố thiết kế.
Màu xanh lam, màu đỏ và màu vàng là các màu chủ yếu được sử dụng.
Các chi tiết trang trí được thực hiện theo một hệ thống dựa trên trên hình học, biểu tượng và trang trí thực vật.
Phần trên của các bức tường có dòng chữ Ả Rập, chủ yếu là các bài thơ của Ibn Zamrak (nhà thơ, chính khách người Granada, năm 1333- 1393) và những người khác ca ngợi Cung điện, được chế tác thành hoa văn hình học trên nền thực vật Ả Rập (mô típ trang trí này còn được gọi là “Ataurique"). Phần lớn trang trí này được chạm khắc bằng vữa thạch cao.
Phần dưới của các bức tường là tấm gạch ốp trang trí (Alicatado) với đường trang trí theo mẫu toán học phức tạp (dạng gờ như gân lá cây chạm thủng/khung /Tracery và dạng gờ nhô lên trên một bề mặt/Lacería).
Trần nhà làm bằng gỗ (gồm hệ dầm gỗ/Alfarje) với cách trang trí tương tự như tường.
Một số trần phòng tạo thành vòm bằng vữa hình tổ ong hay vòm thạch nhũ (Muqarnas/ Mocárabes), biểu tượng cho sự sáng tạo vũ trụ của Chúa; là sự chuyển đổi trang trí từ các bức tường sang trần nhà. Một trong số mái vòm thành công nhất của loại này là ở sảnh của Phòng mang tên Sư tử.
Tại đây ít có trang trí bằng kim loại.
Đồ nội thất nổi tiếng của Quần thể Cung điện Alhambra trước hết là những chiếc bình Alhambra hay đồ gốm Hispano-Moresque. Đây là một phong cách đồ gốm Hồi giáo, ban đầu được tạo ra ở Tây Ban Nha, tiếp tục được sản xuất dưới thời Cơ đốc giáo với phong cách pha trộn yếu tố Hồi giáo và Châu Âu. Đây là loại gốm tinh xảo và sang trọng nhất được sản xuất ở châu Âu vào thế kỷ 14 – 15. Có những bình gốm cao đến 1,3m với nền màu trắng, trang trí màu xanh lam, trắng và vàng.

Một trong những bình gốm cổ Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Phối cảnh Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Sơ đồ vị trí các hạng mục công trình chính trong Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Quần thể Cung điện Alhambra có nhiều di tích, trong đó có một số di tích nổi tiếng:
Tháp cổng Vela
Tháp cổng Vela (Torre de la Vela, hình vẽ ký hiệu 1) nằm tại mặt phía tây bắc của Quần thể (tại khu vực được ví như mũi tàu của Pháo đài). Cổng bao gồm một cụm công trình với 4 tầng nổi, 1 tầng hầm và 1 hầm ngục. Tháp chính có mặt bằng hình vuông, mỗi cạnh dài 16m, cao 26,6m. Trên nóc tháp chính có một tháp chuông nhỏ, được xây dựng vào thế kỷ 19.

Phối cảnh Tháp cổng Vela, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Cổng trong Vino
Cổng trong Vino (Puerta del Vino, hình vẽ ký hiệu 3) nằm tại mặt phía tây của Quần thể, là cổng vào khu vực thành nội, phân cách với khu vực của người phục vụ (Alcazaba). Đây cũng là một trong những phần lâu đời nhất của Cung điện, vào đầu thế kỷ 14. Ngày nay, cụm công trình chỉ còn lại một tòa nhà 2 tầng, nằm biệt lập tại góc phía tây nam của Quảng trường Aljibes (Plaza de los Aljibes, được xây dựng vào năm 1494). Mặt tiền bên ngoài Cổng là phần cổ nhất, dạng vòm với viên đá nêm (Voussoir) nằm chính giữa vòm được chạm nổi.
Cổng Justicia
Cổng Justicia (Cổng Công Lý/Puerta de la Justicia, hình vẽ ký hiệu 4) nằm tại mặt phía nam của Quần thể. Đây là cổng thành hoành tráng nhất, được xây dựng vào năm 1348.
Kề liền Cổng là một pháo đài hình tròn của pháo binh Cơ đốc giáo. Bên trong có các bức tường đá chạm khắc các hình tượng của thời Phục hưng tại Grananda.
Cổng còn được gọi là Cổng sân thượng Esplanada (Puerta de la Esplanada) vì không gian sân thượng rộng và trải dài sau Cổng. Hình dáng uy nghiêm của Cổng đã trở thành một trong những biểu tượng của Quần thể Cung điện Alhambra.
Trên cánh cửa của Cổng có trang trí các biểu tượng của cả Hồi giáo và Cơ đốc giáo.
4 cột trụ trang trí theo phong cách Hồi giáo bằng gỗ mạ sắt gần đây đã được phục hồi. Bên trong các công trình, mái vòm, tường được sơn màu gạch đỏ, một trong những đặc điểm của kiến trúc Vương triều Nasrid.

Phối cảnh mặt phía đông Cổng Justicia, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Trang trí tại mặt phía tây Cổng Justicia, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Tháp canh Infantas
Tháp canh Infantas (Torre de la Infantas, hình vẽ ký hiệu 7) nằm tại mặt phía đông bắc của Quần thể. Đây là một trong các tháp canh pháo đài điển hình. Công trình có mặt bằng hình chữ nhật, cao 2 tầng. Tháp gắn liền với hệ thống tường thành và lối đi cho quân đội triển khai lực lượng phòng thủ dọc theo bên trong tường thành.
Alcazaba
Alcazaba (hình vẽ ký hiệu 2) là cụm công trình nằm tại phía tây của Quần thể, phía sau của Tháp cổng Vela. Đây là một trong những phần lâu đời nhất của Cung điện, được xây dựng vào thế kỷ thứ 9.
Bao quanh cụm công trình là bức tường thành với lối đi cho quân đội như tại các tháp canh.
Chính giữa sân Alcazaba là tàn tích móng, được cho là nhà ở cho đội cận vệ hoàng gia và người phục vụ.
Phía tây của Alcazaba là một dải công trình với tháp canh nhô cao.
Trong một thời gian dài, Alcazaba được sử dụng như một nhà tù. Đến cuối thể kỷ 19, Cụm công trình mới được cải tạo lại một phần.

Tàn tích cụm công trình Alcazaba, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Cung điện Charles V
Cung điện Charles V (Palace of Charles V, hình vẽ ký hiệu 5) nằm tại trung tâm Quần thể Cung điện Alhambra, phía bắc Cổng Justicia.
Sau khi chinh phục thành phố vào năm 1492, Charles V, Hoàng đế La Mã Thần thánh (Holy Roman Emperor, trị vì năm 1519- 1556) mong muốn xây dựng một cung điện Công giáo làm nơi cư trú lâu dài.
Công trình do Pedro Machuca (kiến trúc sư Tây Ban Nha, năm 1490- 1550) thiết kế vào năm 1528, theo phong cách Phục hưng (Renaissance, nối tiếp kiến trúc Gothic, được phát triển đầu tiên tại Florence, Ý, chú trọng tính đối xứng, tỷ lệ, hình học và kế thừa các giá trị của kiến trúc La Mã cổ đại). Về mặt văn hóa, những người Công giáo muốn thay thế quyền bá chủ của kiến trúc Hồi giáo tại Grananda.
Vào thời điểm này, kiến trúc Tây Ban Nha đang chìm đắm trong phong cách Gothic và Phục hưng, gồm: Plateresque (phong cách kiến trúc Gothic Tây Ban Nha, là sự kết hợp giữa không gian Gothic và trang trí theo nghệ thuật Mudéjar, sản phẩm nghệ thuật Hồi giáo được sản xuất bởi thợ thủ công Cơ đốc giáo); Flamboyant Gothic (kiến trúc hậu Gothic, năm 1375- giữa thế kỷ 16, đặc trưng bởi các đường gờ hay gân trang trí Tracery dạng kép) và Lombard (kiến trúc Vương quốc Lombard/ Kingdom of the Lombards, tại miền nam nước Ý, tồn tại năm 568- 774); cũng như các yếu tố thời Phục hưng có nguồn gốc Tuscan (thủ phủ vùng Florence, Ý, nơi khai sinh thời kỳ Phục hưng Ý).
Kiến trúc sư Pedro Machuca đã xây dựng Cung điện Charles V theo Chủ nghĩa Manne (Mannerism, còn được gọi là Hậu Phục hưng, xuất hiện năm 1520 – cuối thể kỷ 16, gắn liền với các nhà nghệ sĩ và văn hóa nổi tiếng Leonardo da Vinci, Raphael và Michelangelo tại Florence, Ý).
Cung điện có mặt bằng hình vuông, rộng 63m, cao 17,4m, cao 2 tầng (không kể tầng lửng).
Trung tâm Cung điện là một sân trong hình tròn đường kính 30m với hàng 32 cột đá bao quanh. Đây là điều đặc sắc trong kiến trúc thời Phục hưng, tạo vị thế tiên phong của tòa nhà thời bấy giờ.
Cung điện có mặt đứng chính tại hướng tây và nam. Mặt hướng bắc và đông chỉ trang trí một phần do gắn với các công trình khác.
Tại mặt đứng phía nam: Phần dưới hay tầng 1 trang trí theo phong cách Tuscan, với các mảng tường có bề mặt trang trí như xây dựng bằng đá và chia thành các bước gian bởi trụ tường. Mỗi bước gian có cửa sổ hình chữ nhật tại phía dưới và hình tròn tại phía trên. Phần trên hay tầng 2 được trang trí theo phong cách Phục hưng với trụ tường trang trí đầu cột Ionic. Mỗi bước gian có cửa sổ hình chữ nhật tại phía dưới và hình tròn tại phía trên. Phía trên cửa sổ hình chữ nhật có mảng tường trang trí hình tam giác. Khối sảnh ra vào nhô ra khỏi bề mặt tường, cao 2 tầng, giới hạn hai bên bởi 2 cột Ionic. Cửa tầng dưới hình chữ nhật với trụ cửa là cột Ionic nhỏ, phía trên có mảng tường trang trí hình tam giác. Cửa tầng trên như một hàng hiên với trụ đỡ vòm hiên và mảng tường trang trí bên trên.
Tại mặt đứng phía tây: Có bề mặt bố cục tương tự như mặt đứng phía nam. Chỉ khác biệt tại khối sảnh ra vào. Khối sảnh tại tầng 1 gồm 3 bước gian, được giới hạn bởi 2 cột Doric. Gian chính có cửa rộng, cao với mảng tường trang trí hình tam giác bên trên; Gian hai bên có cửa nhỏ với mảng tường tam giác và ô cửa tròn trang trí bên trên.
Khối sảnh tại tầng 2 gồm 3 bước gian, được giới hạn bởi 2 cột Doric như tầng dưới, song khác biệt là có một hàng hiên với lan can sắt bao quanh. Trên mỗi cửa cũng có gờ trang trí dạng vòm hoặc tam giác và ô cửa tròn bên trên.
Hàng hiên xung quanh sân trong có các hàng cột đá. Tầng 1 là hàng cột phỏng theo thức cột Doric (cột không có rãnh, dầm/Entablature trên đầu cột đơn giản, không có chi tiết trang trí phía trên dầm/Triglyphs hoặc diềm mái/Guttae). Tầng 2 là các hàng cột phỏng theo thức cột Ionic.
Không gian bên trong và cầu thang cũng bị chi phối bởi sự kết hợp của hình vuông, hình tròn và một hình bát giác tại góc đông bắc. Chi tiết trang trí nội thất theo phong cách Hậu Phục hưng (Mannerism).
Cung điện chưa được hoàn thành. Phần mái che được thực hiện bổ sung vào năm 1957.

Phối cảnh tổng thể Cung điện Charles V, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha; bên phía dưới của ảnh là Cổng trong Vino và Quảng trường Aljibes

Sơ đồ mặt bằng Cung điện Charles V, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Phối cảnh sân trong Cung điện Charles V, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Phối cảnh mặt phía nam Cung điện Charles V, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Phối cảnh mặt phía tây Cung điện Charles V, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Cung điện Partal
Cung điện Partal (Partal Palace, hình vẽ ký hiệu 6) nằm tại phía bắc Quần thể Cung điện Alhambra, sát tường thành. Cung điện được xây dựng bởi Vua Muhammad III (Vương triều Nasrid, trị vì năm 1302- 1309).
Cung điện hiện chỉ còn lại tháp và cổng vòm ở phía bắc và một phần sân trong.
Cung điện Partal có mặt bằng bố trí điển hình như cung điện khác trong Quần thể: Công trình bố cục bao quanh sân trong. Trung tâm sân là một là một hồ cảnh.
Hồ bố cục theo hướng bắc – nam. Đầu phía bắc hồ có một Hiên vòm (Portico) và một Tháp quan sát (Mirador). Tháp quan sát cao thông 2 tầng, nhô ra để có thể quan sát cả 3 hướng.
Phía trên Hiên vòm là Tháp Damas (Torre de las Damas).
Nội thất Hiên vòm, Tháp Damas và Tháp quan sát đều được chạm khắc hoặc phủ vữa trang trí tinh xảo. Các trang trí đều được sơn màu sắc. Trần nhà bằng gỗ nguyên bản bên trong Cung điện đã bị tháo dỡ vào đầu thế kỷ 20. Hiện đang được lưu giữ tại Khu nghệ thuật Hồi giáo tại Bảo tàng Pergamon (Pergamon Museum), Berlin, Đức.
Tại phía đông và nam của Cung điện là một khu vườn (Partal Gardens), hình thành vào những năm 1910- 1920.
Phía đông của Cung điện Partal có một nhà nguyện (nhà thờ Hồi giáo). Nhà nguyện có các hốc vòm (Mihrab, hướng về Thánh địa Mecca) được trang trí lộng lẫy bằng vữa theo truyền thống thời Vương triều Nasrid.
Tại phía tây của Sân trong là cụm công trình từ thế kỷ 14. Bên trong công trình có một số trang trí bằng vữa và bích họa do nghệ nhân Hồi giáo và Cơ đốc giáo thực hiện.

Sơ đồ vị trí Cung điện Parta (bên phải ảnh), Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Phần hiên với Tháp Damas, Cung điện Partal, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Trang trí bên trong Tháp quan sát, Cung điện Partal, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Cung điện Comares
Cung điện Comares (Comares Palace) là một cụm công trình nằm tại trung tâm Quần thể Cung điện Alhambra, phía bắc của Cung điện Charles V.
Cung điện có một sân trong dài 42m, rộng 22m. Bao quanh các mặt phía bắc, đông, tây của sân trong là công trình. Tại mặt nam của sân, các tòa nhà đã bị phá hủy để xây dựng Cung điện Charles V.
Sân trong có tên Myrtles (Patio de los Arrayanes/ Court of the Myrtles, hình vẽ ký hiệu 11), bố cục theo hướng bắc nam. Bên trong là một hồ dài 34m, rộng 7,1m. Hồ nhận nước từ 2 đài phun nước bằng đá cẩm thạch đặt tại hai đầu. Dọc theo hai bên Hồ nước là hàng cây bụi cắt tỉa như một hàng rào.
Bao quanh Sân trong, tại mặt đông và tây là bức tường; hai đầu phía bắc và nam là hàng hiên. Mỗi hàng hiên có 6 cột đỡ 7 vòm hình bán nguyệt trang trí các hình thoi và dòng chữ ca ngợi Chúa trời. Vòm trung tâm lớn hơn 6 vòm còn lại. Các vòm trang trí hình tổ ong hay thạch nhũ (Muqarnas/ Mocárabes). Sân trong được phục hồi vào thế kỷ 19 cùng với việc cải tạo lại các công trình trong Quần thể Cung điện Alhambra.

Sân trong Myrtles, nhìn về phía nam, Cung điện Comares, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Sân trong Myrtles nhìn về phía bắc, Cung điện Comares, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Mặt cắt dọc Sân trong Myrtles và tòa Comares; Sơ đồ các chi tiết trang trí đầu cột, bể phun nước tại Cung điện Comares, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Các phòng chính trong Cung điện gồm:
Phòng Vàng (Cuarto Dorado, hình vẽ ký hiệu 8) nằm tại phía tây bắc Cung điện Comares. Đây là nơi diễn ra hoạt động của Tòa án Hồi giáo. Phòng được xây dựng dưới thời vua Abu Abdallah Muhammad V (Vương triều Nasrid, trị vì năm 1362–1391). Phòng có trần bằng gỗ, trang trí theo phong cách Mudéjar. Lối vào Phòng có một cổng với 3 vòm mái được đỡ bằng các cột đá cẩm thạch. Mặt tiền phía nam Phòng Vàng hướng ra một sân nhỏ. Mặt tường của Phòng được ốp gạch men phần dưới và phần trên được phủ vữa thạch cao trang trí dòng chữ từ kinh Koran và các mẫu động thực vật. Tầng trên của Phòng được sửa đổi vào giai đoạn Công giáo sau này, trở thành nơi ở của các Thống đốc và cai quản Cung điện Alhambra.

Phòng Vàng (Cuarto Dorado, Cung điện Comares, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Phòng Mexuar (Sala del Mexuar, hình vẽ ký hiệu 9) nằm tại phía tây Cung điện Comares. Đây là nơi hội họp của quan chức trong Vương triều. Vào thế kỷ 16, công trình được cải tạo thành 2 tầng và chuyển thành nhà nguyện Công giáo. Trong phòng có 2 hàng cột, mỗi hàng 3 cột đỡ sàn và trần dạng vòm hình tổ ong hay vòm thạch nhũ (Muqarnas/Mocárabes). Công trình bị thiệt hại nặng do một vụ nổ vào năm 1590 và được cải tạo lại vào năm 1917.

Nội thất Phòng Mexuar, Cung điện Comares, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Tại phía bắc Cung điện Comares có Tòa Comares (Comares Hall/Salon de Embajadores, hình vẽ ký hiệu 10), là nơi vua tiếp đón đại sứ. Công trình nằm trên trục chính của Sân trong. Tòa nhà có mặt bằng hình vuông, mỗi cạnh dài 12m, như một tòa tháp (Torre de Comares), nhìn ra thung lũng sông Darro. Sảnh chính vào tòa nhà tại phía nam, phía sau hàng hiên của Sân trong. Mái vòm trong tòa nhà cao 23m. Bên trong tòa nhà có 9 cửa lớn, 3 cửa tại mỗi mặt tiền. Phía trên có 15 cửa vòm nhỏ, 5 cửa tại mỗi mặt tiền. Trần nhà được trang trí bằng các lớp khảm màu trắng, xanh và vàng theo hình đường tròn, vương miện và ngôi sao. Các bức tường được bao phủ bởi các bức chạm khắc bằng vữa.

Nội thất phòng Comares, Cung điện Comares, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Phía đông của Cung điện Comares có một số phòng phụ tiếp giáp với Cung điện Sư tử.
Cung điện Sư tử
Cung điện Sư tử (Palace of the Lions) nằm tại phía bắc Quần thể Cung điện Alhambra, tại phía đông bắc của Cung điện Charles V, phía đông của Cung điện Comares.
Cung điện Sư tử là một quần thể kết hợp giữa cung điện, vườn cây và pháo đài, được xây dựng dưới thời vua Abu Abdallah Muhammad V (Vương triều Nasrid, trị vì năm 1362–1391).
Cung điện Sư tử cũng như các công trình tại Cung điện khác dưới thời Abu Abdallah Muhammad V, được xây dựng theo một phong cách mới, là sự pha trộn giữa ảnh hưởng của phong cách Hồi giáo và Cơ đốc giáo, còn được gọi là Phong cách Nasrid.
Cụm công trình gồm một sân trong và bao quanh là các công trình.
Sân trong Sư tử (Court of the Lions, hình vẽ ký hiệu 12) nằm tại phía đông của Cung điện Sư tử, có bố cục theo hướng đông – tây, dài 35m, rộng 20m. 4 mặt Sân trong là hàng hiên bao quanh với 124 cột bằng đá cẩm thạch màu trắng. Riêng mặt phía đông và tây có thêm một khối nhà với hàng cột nhô ra sân. Cấu trúc của Sân trong bắt nguồn từ ý tưởng Vườn Ba Tư (Persian Garden, tồn tại thời vương triều Achaemenid/ Achaemenid Empire hay Đế quốc Ba Tư, khoảng 550-330 TCN) với tên gọi Thiên đường (Paradise). Vườn Thiên đường có mặt bằng hình chữ nhật, được chia thành 4 phần tượng trưng cho 4 phần của Thế giới. Mỗi phần được tưới bởi một kênh nước tượng trưng cho 4 con sông của Thiên đường. Các cây cột mảnh mai tại hiên xung quanh sân tượng trưng cho những cây cọ trên ốc đảo sa mạc. Đài phun nước trong sân tượng trưng lòng nhân từ của vua ban cho các thần dân trong vương quốc của mình. Ngày nay, vườn cây được thay thế bằng vườn khô với đá cuội.
Riêng nguồn gốc biểu tượng về 12 con sư tử bao quanh Đài phun nước vẫn tiếp tục còn tranh luận.
Các bức tường bao quanh Sân trong, cách mặt đất 1,5m được ốp bằng gạch màu xanh, vàng với đường viền trên và dưới tráng men màu xanh lam, vàng.
Trang trí tại hiên xung quanh sân trong theo nguyên tắc Sebka, là một loại họa tiết các hình thoi đan xen với nhau, trở thành Mô típ trang trí điển hình của kiến trúc Hồi giáo phương Tây (Moorish). Sebka thường được kết hợp với Arabesque (trang trí hình lá cây, kết hợp với hình thân cây xoắn ốc) tạo thành thuật ngữ “đan xen” và “cuộn” trong nghệ thuật trang trí.

Nhìn từ hàng hiên ra Sân trong, Cung điện Sư tử, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Sân trong Cung điện Sư tử vào ban đêm, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Trang trí theo nguyên tắc Sebka tại mái vòm hàng hiên của Sân trong Sư tử.
Bao quanh Vườn Thiên đường hay Sân trong Sư tử gồm các phòng chính:
Phòng 2 Chị em (Hall of the Two Sisters/ Sala de Dos Hermanas, hình vẽ ký hiệu 13), nằm tại phía bắc Sân trong Sư tử, trên trục chính theo hướng bắc nam của Cung điện Sư tử. Phòng 2 Chị em là nơi hoàng đế sinh sống, được xây dựng theo lệnh của Abu Abdallah Muhammad V. Phòng có mặt bằng hình vuông với 3 phía là phòng phụ; được trang trí bởi vòm hình bán nguyệt và vòm hình tổ ong hay thạch nhũ (Muqarnas/ Mocárabes). Ánh sáng chiếu vào mái vòm đến từ cửa sổ nhỏ trên tường. Tường bên trong phòng được trang trí bởi các bức bích họa bằng vữa thạch cao cực kỳ tinh xảo theo chủ đề khác nhau. Nền của sảnh được lát bằng đá cẩm thạch; bên trong có một đài phun nước và một đường nước nhỏ dẫn ra Sân sư tử (Patio de los Leones).

Nội thất Phòng Hai chị em, Cung điện Sư tử, Quần thể Cung điện Alhambra
Phòng Vua (Hall of the Kings, hình vẽ ký hiệu 14), nằm tại phía đông Sân trong Sư tử, là căn phòng tiêu biểu của Cung điện Sư tử. Phòng Vua là nơi Hoàng gia thư giãn và giải trí. Phòng có một tiền sảnh lớn dài 30m, dành cho các buổi chiêu đãi và lễ kỷ niệm. Sảnh có 7 bước gian, trong đó có 3 bước gian chính với mặt bằng hình vuông. Trên trần của 3 bước gian chính này 3 mái vòm bằng gỗ với các trang trí theo kiểu thạch nhũ (Muqarnas/ Mocárabes). Phía trong của 3 bước gian chính là 3 gian nhỏ với trần dạng vòm. Bức tranh tại vòm giữa mô tả 10 vị vua đầu tiên của Vương triều Nasrid. Bức tranh tại mái vòm hai bên mô tả cảnh hiệp sĩ săn bắn và truyền thuyết về các vị vua Hồi giáo. Các bức tranh này được thực hiện vào cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15. Tên Phòng Vua được đặt theo nội dung của các bức tranh này.

Nội thất Phòng Vua, Cung điện Sư tử, Quần thể Cung điện Alhambra

Bức tranh trên vòm trần miêu tả 10 vị vua đầu tiên của Vương triều Nasrid, Phòng Vua, Cung điện Sư tử, Quần thể Cung điện Alhambra
Phòng Abencerrages (Hall of the Abencerrages, hình vẽ ký hiệu 15) nằm tại phía nam Sân trong Sư tử. Phía trước Phòng, tiếp giáp với Sân trong Sư tử là một hành lang. Phòng có 3 bước gian. Gian chính là sảnh. Hai gian bên là phòng ngủ của Vua (Sultan). Đây là phòng riêng không có cửa sổ mở ra bên ngoài. Các không gian đều được trang trí bằng các mái vòm theo kiểu thạch nhũ (Muqarnas/ Mocárabes), đầu cột và trần nhà sơn màu. Các bức tường có các lớp phủ thạch cao và gạch ốp lát từ thế kỷ 16 theo phong cách Phục hưng. Không gian sảnh có một đài phun nước nhỏ. Phòng Abencerraijes được coi là biểu tượng cho sự quý phái và lịch thiệp.

Nội thất Abencerrages, Cung điện Sư tử, Quần thể Cung điện Alhambra
Phía tây của Sân trong Sư tử còn có một số phòng phụ liên kết với Cung điện Comares.
Bể chứa nước tại Alhambra
Trước đây, cấp nước cho Alhambra phụ thuộc vào nước mưa thu gom trong bể chứa và vận chuyển nước từ khu dân cư Albaicín bên kia sông.
Người Hồi giáo, khi thống trị vùng đất đã kế tục được người La Mã trong việc làm chủ hệ thống cấp nước công cộng. Nước cấp cho Quần thể và cho cả Khu vườn Generalife là một hệ thống kênh (Acequias). Việc tạo ra hệ thống kênh dẫn nước đã củng cố vị thế của Quần thể như là một cung điện hơn là một pháo đài phòng thủ.
Hệ thống cấp nước gồm kênh dẫn nước và một số thiết bị để đưa nước lên cao. Tuyến kênh dẫn nước (Acequia Real còn được gọi là Acequia del Rey/Acequia del Sultan) dài đến 6km, chảy từ trên đỉnh đồi xuống Khu vườn Generalife và Quần thể Cung điện Alhambra phía dưới. Hệ thống cấp nước tại đây trở thành một trong những cấu trúc thủy lực quan trọng nhất ở Tây Ban Nhà thời Trung cổ.
Nước từ kênh cũng như từ sông, suối, giếng nước ngầm hoặc thu gom nước mưa theo mùa được chứa vào hệ thống bể hay hồ chứa nước.
Việc xây dựng bể hoặc hồ chứa nước có vai trò quan trọng cho sự tồn tại và ổn định của một khu vực đông dân cư. Đá và gạch là vật liệu xây dựng chính với vữa bao phủ để hạn chế sự rò rỉ nước.
Một trong những di tích bể chứa nước nổi tiếng tại đây là Bể chứa nước Alhambra (El Aljibe de la Alhambra), dài 34m, rộng 6m và cao 8m có khả năng chứa 1632m3, là một trong những bể chứa lớn nhất Tây Ban Nha thời bấy giờ. Bể nằm tại Quảng trường Aljibes (hình vẽ ký hiệu 3). Nước được nhận từ kênh Acequia Real de la Alhambra.

Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Bể chứa nước Alhambra, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha

Nội thất Bể chứa nước Alhambra, Quần thể Cung điện Alhambra, Granada, Tây Ban Nha
Generalife
Khu vườn Hoàng gia Generalife nằm tại phía đông Quần thể Cung điện Alhambra, dựa vào sườn núi.
Khu vườn là sự kết hợp giữa kiểu vườn truyền thống của người Hồi giáo (Moorish) gắn với việc sử dụng nước và trồng cây, vừa có chức năng sản xuất vừa giải trí.
Tại đây cũng cho thấy kỹ thuật làm vườn thời Phục hưng và đương đại với mảng cây xanh rậm rạp như rừng của kiểu vườn Anh được du nhập vào đầu thế kỷ 19.
Khu vườn có cấu trúc tương tự như một Cung điện, nằm trên các bậc nền (bậc thang) theo địa hình sườn đồi.
Bậc nền thấp nhất là khu vườn phía tây với mặt nền dốc thoải.
Bậc nền thứ hai là bậc nền nằm sát với Sân trong Acequia (Acequia Court).
Bậc nền thứ ba là nơi đặt Sân trong Acequia (Acequia Court), trung tâm của Khu vườn. Sân trong bố cục chếch tây bắc – đông nam. Chính giữa Sân trong là một đường nước hẹp. Hai bên sân trong: Phía thấp là một hàng hiên (cao 2 tầng với tầng dưới thuộc bậc nền thứ hai) với một Tháp quan sát (Mirador); Phía cao là một đoạn phòng 1 tầng và tường chắn đất. Đầu phía tây bắc của Sân trong là một tòa Pavilion cao 3 tầng với Hiên vòm (Portico) và một Tháp quan sát (Mirador). Kề liền là một tháp nhỏ (Tower). Đầu phía đông nam của Sân trong cũng là một tòa nhà cao 2 tầng gắn liền với cụm công trình Paito de Polo cao 1- 2 tầng với 2 sân trong nhỏ.
Bậc nền thứ tư là Vườn Vua (Garden of the Sultana). Khu vườn này có một dãy phòng như hàng hiên tại phía tây bắc. Xung quanh là tường chắn đất và bậc thang lên các bậc nền cao hơn (Terraced Gardens). Chính giữa Vườn Vua là một đường nước hình chữ U. Tại phía đông của Vườn Vua có Bậc thang nước (Water Stairway), là một tuyến bậc với đài phun nước đặt tại chiếu nghỉ giữa các đoạn bậc. Lan can cầu thang cũng là đường dẫn nước.
Bậc nền cao nhất của Khu vườn đặt một công trình nhỏ 2 tầng Oratory. Từ đây có các bậc thang và đường dốc dẫn xuống các vườn bậc thang tại phía nam.

Phối cảnh tổng thể Khu vườn Hoàng gia Generalife, Granada, Tây Ban Nha

Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Khu vườn Hoàng gia Generalife, Granada, Tây Ban Nha

Sân trong Acequia, Khu vườn Hoàng gia Generalife, Granada, Tây Ban Nha

Vườn Vua, Khu vườn Hoàng gia Generalife, Granada, Tây Ban Nha

Trang trí bên trong Khu vườn Hoàng gia Generalife, Granada, Tây Ban Nha

Bậc thang và lan can là đường dẫn nước, Khu vườn Hoàng gia Generalife, Granada, Tây Ban Nha
Albayzín
Di sản Khu dân cư Albayzín nằm tại phía tây Quần thể Cung điện Alhambra, bên kia sông Darro, trên khu vực địa hình tương đối bằng phẳng với các gò đồi dốc thoải.
Khu dân cư Albayzín có lịch sử hình thành lâu đời, song được phát triển và ảnh hưởng lớn nhất vào thời Vương triều Hồi giáo Nasrids.
Trước cuộc chinh phục của người Hồi giáo trên Bán đảo Iberia, đã có ba khu định cư nhỏ ở nơi ngày nay là thành phố Granada và vùng phụ cận: Iliberis (Elvira), sau này được gọi là "Albaizín" và "Alcazaba"; Castilia, gần thị trấn Atarfe hiện nay; Garnata, trên ngọn đồi đối diện với Alcazaba.
Đây là một kho lưu trữ phong phú kiến trúc bản địa Moorish, trong đó kiến trúc Andalucia truyền thống được kết hợp hài hòa và trở thành trung tâm văn hóa Hồi giáo lâu đời nhất tại Granada.
Về mặt quy hoạch, Khu dân cư Albayzín với những con phố hẹp và quanh co, cùng tồn tại một cách hài hòa với những thay đổi và xuất hiện các không gian công cộng mới (quảng trường) sau cuộc chinh phục của người Thiên chúa giáo.
Về mặt kiến trúc, Khu dân cư Albayzín là sự tiếp nối giữa cấu trúc xây dựng thời Vương triều Hồi giáo Nasrid với tường thành, tháp cổng, nhà thờ Hồi giáo, cung điện, nhà tắm công cộng, bể nước, cầu, bệnh viện và Vương triều Cơ đốc giáo sau này với tu viện, nhà thờ Công giáo, dinh thự, biệt thự.
Tại đây nổi bật kiểu nhà truyền thống, là một ngôi nhà độc lập được bao quanh bởi một bức tường cao ngăn cách với đường phố, bên trong có sân trong với vườn cây nhỏ.
Cấp nước cho người dân được đảm bảo thông qua đường ống nối từ các giếng ngầm.
Lịch sử văn hóa của thành phố gắn liền với việc chuyển đổi từ Hồi giáo sang Cơ đốc giáo, bắt đầu sự kiện kết thúc Vương triều Nasrid vào năm 1492. Khu dân cư Albayzín có nhiều di tích thuộc giai đoạn lịch sử khác nhau, song nổi bật là các di tích thời kỳ Nasrid và Phục hưng:

Bức tranh toàn cảnh Khu dân cư Albayzín, Granada, Tây Ban Nha

Sơ đồ vị trí di tích chính tại Khu dân cư Albayzín, Granada, Tây Ban Nha
Tường thành, cổng và tháp canh tại Albayzín
Di sản Khu dân cư Albayzín còn lưu lại tàn tích của 3 đoạn tường thành:
Đoạn tường thành Muralla Nazari (hình vẽ ký hiệu 3), hình thành dưới thời Vương triều Nasrid (Nasrid Dynasty, tồn tại năm 1230–1492), nằm tại phía bắc và là đoạn tường thành dài nhất trong Khu vực Di sản; Đoạn tường thành này chạy dọc theo đỉnh đồi, gắn với Nhà thờ Công giáo Ermita de S. Miguel Alto (hình vẽ ký hiệu 4).
Đoạn tường thành Muralla Ziril (hình vẽ ký hiệu 14), hình thành dưới thời Vương triều Zirid Taifa (Zirid Dynasty, cai trị vùng trung tâm Maghreb, từ năm 972 – 1148), nằm tại trung tâm Khu vực Di sản; Đoạn tường thành này gắn với di tích Tháp canh Puetra de Monata (xây dựng vào thế kỷ 11, hình vẽ ký hiệu 15) và Tháp canh Puerta de Elvira (xây dựng vào thế kỷ 11, hình vẽ ký hiệu 41).
Đoạn tường thành gắn với thành lũy bao quanh Quần thể Cung điện Alhambra, nằm tại phía nam Khu vực Di sản. Đoạn tường thành này có 3 di tích tháp canh: Tháp Puente del Cadi (xây dựng vào thế kỷ 12, hình vẽ ký hiệu 13); Tháp Puerta de las Granadas (xây dựng vào thế kỷ 16, hình vẽ ký hiệu 22); Tháp Torres Bemejas (xây dựng vào thế kỷ 12- 15, hình vẽ ký hiệu 23).

Phối cảnh tàn tích Đoạn tường thành Muralla Nazar, Khu dân cư Albayzín, Granada, Tây Ban Nha

Phối cảnh tàn tích Đoạn tường thành Muralla Ziril, Khu dân cư Albayzín, Granada, Tây Ban Nha
Tu viện tại Albayzín
Di sản Khu dân cư Albayzín có rất nhiều tu viện, trong đó tu viện chính gồm:
Tu viện Cartuja (Monasterio de la Cartuja) nằm tại phía bắc Di sản (hình vẽ ký hiệu 1), được xây dựng vào thế kỷ 16- 18. Đây là Tu viện Công giáo La Mã của tu sĩ dòng Carthusian (Order of Carthusians, tồn tại thế kỷ 16 – 19). Tu sĩ của dòng tu bị trục xuất năm 1835. Một số công trình trong Tu viện bị phá bỏ vào năm 1842.
Mặt tiền của Tổ hợp Tu viện hình thành từ thế kỷ 16 và theo phong cách Plateresque (xuất hiện cuối thời kỳ Gothic và đầu Phục hưng vào cuối thế kỷ 15 tại Tây Ban Nha, là kết quả của điều chỉnh không gian Gothic và sự kết hợp các thành phần trang trí Mudejar, Flamboyant Gothic và Lombard, cũng như các yếu tố thời kỳ đầu Phục hưng có nguồn gốc Tuscan, Ý).
Tổ hợp Tu viện nằm theo trục đông tây, vào từ phía tây, gồm các công trình chính:
Nhà thờ (Iglesia) xây dựng vào thế kỷ 16 và kết thúc vào năm 1602, dạng một nhịp với 3 bước gian Hội trường (Gian giữa/Nave), 1 gian Hợp xướng (Choir/Tribune/Dome) và 1 gian Hậu đường (Apse). Dọc theo gian Hội trường, tại vị trí phân chia bước gian là các trụ tường lớn kéo dài tới diềm mái. Mặt trước Nhà thờ gắn với một bệ nền cao có bậc lên từ hai phía. Hình thức kiến trúc của công trình đơn giản, được nhấn mạnh bởi hai trụ tường lớn hai bên. Chính giữa là một cửa vòm với hàng cột Ionic. Bên trên là một mảng trang trí dạng hốc vòm với tượng thánh bên trong. Trên cùng là cửa sổ tròn.
Tu viện (Claustrillo) nằm tại phía nam của Nhà thờ, được xây dựng từ thế kỷ 17, cao 2 tầng bao quanh sân trong. Sân trong có hàng hiên 1 tầng với vòm mái được đỡ bằng hàng cột Doric.
Ngoài ra, tại đây còn lưu giữ một số di tích đặc biệt: Nhà ăn (Refectory) với mái vòm hình bán nguyệt có các đường gân trang trí theo phong cách Gothic; Nhà nguyện (Capilla), trong đó có Nhà nguyện Legos (Chapel of Legos), được xây dựng từ năm 1517 - 1519 với phong cách Hậu Gothic; Nhà hội đồng (Sala Capitular) với một mái vòm hình bán nguyệt có các đường gân trang trí theo phong cách Gothic; Phòng Thánh tích (Sacristy) xây dựng năm 1727- 1764, được trang trí phong phú và một trong những ví dụ đặc biệt về giai đoạn Hậu Baroque Tây Ban Nha. Mái vòm bên trong Phòng Thánh tích trang trí bức bích họa mô tả các vị sáng lập dòng tu Carthusian…

Phối cảnh Tu viện Cartuja, Khu dân cư Albayzín, Granada, Tây Ban Nha

Mặt trước khối Nhà thờ, Tu viện Cartuja, |