Thông tin chung:
Công trình: Quần thể di tích tại Khajuraho (Khajuraho Group of Monuments)
Địa điểm: Bang Madhya Pradesh, Ấn Độ (N24 51 7.992 E79 55 19.992)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: 3 khu vực với 15 cụm công trình chính
Năm hình thành:
Giá trị: Di sản thế giới (1986, hạng mục i ; iii)
Ấn Độ (India) là một quốc gia tại Nam Á, có diện tích 3.287.263 km3 (đứng thứ 7 trên thế giới); dân số khoảng 1324 triệu người (năm 2016).
Ấn Độ tiếp giáp Ấn Độ Dương tại phía Nam, biển Ả Rập phía Tây Nam, vịnh Bengal phía Đông Nam, giáp Pakistan ở phía Tây; với Trung Quốc, Nepal, Bhutan ở phía Đông Bắc; Myanmar và Bangladesh ở phía Đông. Trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ lân cận với Sri Lanka và Maldives; Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ có chung đường biên giới trên biển với Thái Lan và Indonesia.
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện nền văn minh lưu vực sông Ấn (Indus Valley Civilisation) thời Cổ đại, có các tuyến đường buôn bán mang tính lịch sử cùng với những đế quốc rộng lớn, giàu có về thương mại và văn hóa.
Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), tại đây đã xuất hiện các đô thị lớn với số dân hàng vạn người, được quy hoạch với hệ thống thoát nước, cấp nước phức tạp, nhà gạch nung, các kỹ thuật mới trong hoạt động thủ công mỹ nghệ và luyện kim…
Sự phân tầng xã hội, dựa trên đẳng cấp, xuất hiện trong thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Sự tập quyền chính trị sớm nhất diễn ra dưới thời Đế chế Maurya (Maurya Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 322 - 187 TCN); Đế chế Shunga (Shunga Empire, tồn tại trong giai đoạn 187- 78 TCN) và Đế chế Gupta (Gupta Empire, tồn tại trong giai đoạn năm 319 đến 550 sau Công nguyên).
Các vương quốc trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 3 TCN đến thế kỷ thứ 13 sau Công nguyên tại Tiểu lục địa Ấn Độ (Middle kingdoms of India) có ảnh hưởng to lớn đến nền văn hóa của khu vực xung quanh, lan truyền đến tận Đông Nam Á.
Đây cũng là nơi bắt nguồn của 4 tôn giáo nội sinh lớn:
Ấn Độ giáo (Hinduism) là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, xuất phát từ khu vực Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh), là sự hợp nhất hay tổng hợp các nền văn minh truyền thống Ấn Độ khác nhau và không có người sáng lập; hình thành từ năm 500 TCN đến 300 sau Công nguyên, sau khi kết thúc thời kỳ Vệ Đà (Vedic period, năm 1500 – 500 TCN), phát triển mạnh trong thời Trung cổ, cùng với sự suy tàn Phật giáo ở Ấn Độ. Ấn Độ giáo bao gồm các nhóm tôn giáo khác biệt nhau về triết lý, song được liên kết bởi các khái niệm chung, nghi thức, vũ trụ học, tài nguyên văn bản Hindu (luận về thần học, triết lý, thần thoại, kinh Vệ Đà, Yoga, nghi lễ, cách thức xây dựng đền thờ) và tập tục hành hương đến các địa điểm linh thiêng. Bốn giáo phái lớn nhất của Ấn Độ giáo là Vaishnavism, Shaivism, Shaktism và Smartism.
Phật giáo (Buddhism) do Đức Thích Ca Mâu Ni (Siddhartha Gautama/ Tất đạt đa Cồ đàm, năm 624 TCN – 534 TCN) sáng lập với triết lý và phương thức thực hành dựa vào sự thanh tịnh tâm ý (tu tập để hiểu về ý nghiệp, khẩu nghiệp và thân nghiệp) nhằm giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Sau này, Phật giáo phân hóa thành nhiều nhánh: Phật giáo Nguyên thủy (Nam Tông, Thượng tọa, Tiểu thừa); Phật giáo Đại thừa (Bắc tông, Đại chúng); Phật giáo Chân ngôn (Tây Tạng, Mật tông, Kim cương thừa).
Jaina giáo (Jainism, Kỳ Na giáo) là một trong những tôn giáo lâu đời trên thế giới, do Đức Mahavir (năm 599 trước TCN – 527 TCN) sáng lập tại Bắc Ấn Độ, gần như là cùng thời với Phật giáo, với triết lý và phương thức thực hành dựa vào nỗ lực bản thân (tu tập khổ hạnh bằng thân phạt, khẩu phạt và ý phạt) để được giải thoát.
Sikh giáo (Sikhism) do Đức Guru Nanak (năm 1469 - 1539) sáng lập vào thế kỷ 15, tại vùng Punjab, giữa Pakistan và Ấn Độ.
Ngoài ra, tại đây còn xuất hiện tôn giáo ngoại nhập như: Do Thái giáo (Judaism), Bái Hỏa giáo (là tôn giáo do nhà tiên tri Zoroaster sáng lập vào khoảng cuối thế kỷ 7 TCN tại miền Đông Đế quốc Ba Tư cổ đại), Cơ Đốc giáo (Christianity) và Hồi giáo (Islamic). Các tôn giáo này được truyền đến Ấn Độ vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, bổ sung vào văn hóa đa dạng của khu vực.
Vào thời Trung cổ, phần lớn miền Bắc Ấn Độ thuộc Vương quốc Hồi giáo Delhi (Delhi Sultanate), kéo dài trong khoảng 320 năm (1206- 1526). Trong giai đoạn này, sự kết hợp giữa văn minh Ấn Độ với văn minh Hồi giáo, sự hội nhập giữa tiểu lục địa Ấn Độ với vùng lục địa Phi – Á – Âu (Afro-Eurasia) đã tác động to lớn lên văn hóa và xã hội Ấn Độ. Khi Delhi thành thủ đô Hồi giáo vào năm 1193, tại đây đã hình thành nền kiến trúc Hồi giáo - Ấn Độ (Indo-Islamic architecture, nguồn gốc từ Iran), đạt được sự tăng trưởng dân số và kinh tế cùng với việc xuất hiện ngôn ngữ Hindi-Urdu (Hindustani language). Vương quốc Hồi giáo Delhi cũng có vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi cuộc xâm lăng của Đế quốc Mông Cổ vào thế kỷ 13, 14.
Vào thời Trung cổ, tại vùng Bundelkhand (Jejakabhukti, phần lớn bang Madhya Pradesh hiện tại) thuộc miền trung Ấn Độ có vương triều Chandela (Chandela Kingdom, tồn tại từ thế kỷ 9 - 13). Đây là vương triều nổi tiếng về nghệ thuật và kiến trúc, đặc biệt là những ngôi đền, cung điện, pháo đài và hệ thống cung cấp nước tại thủ đô ban đầu Khajuraho, sau này Mahoba và những thành phố khác. Những người Chandelas phần lớn theo Hindu giáo và Jaina giáo.
Vào thời Trung cổ, miền Nam Ấn Độ phân thành nhiều vương quốc nhỏ, ví dụ như :
Vương quốc Vijayanagara (Vijayanagara Empire): nằm trên Cao nguyên Deccan (Deccan Plateau), kinh đô là thành phố Vijayanagara (bang Karnataka hiện tại). Triều đại này thành lập năm 1336, kéo dài đến năm 1646. Vijayanagara đã trở thành một thành trì của Ấn Độ giáo trong giai đoạn người Hồi giáo làm bá chủ ở miền bắc Ấn Độ, nổi tiếng vì bảo trợ cho việc học chữ Phạn. Đây là vương quốc giàu có nhờ buôn bán gia vị và sản xuất hàng dệt vải bông.
Vương quốc Đông Ganga (Eastern Ganga Dynasty): thuộc vùng Kalinga (bang Odisha hiện tại) là khu vực ven biển phía Đông, giữa sông Mahanadi và sông Godavari với kinh đô là Dantapura, sau đó được chuyển đến Kalinganagara (Mukhalingam) và cuối cùng đến Kataka (Cuttack). Triều đại này tồn tại vào thế kỷ 11- đầu thế kỷ 15, được đánh giá là vương triều bảo trợ tuyệt vời cho tôn giáo và nghệ thuật. Nhiều ngôi đền của thời kỳ Đông Ganga được xếp hạng là những kiệt tác của kiến trúc Ấn Độ giáo. Người cai trị đáng chú ý của triều đại Đông Ganga là vua Narasingha Deva I (trị vì năm 1238-1264). Ông là một chiến binh mạnh mẽ, đã tổ chức đánh bại nhiều đợt tấn công của Vương quốc Hồi giáo Delhi và thậm chí còn truy đuổi kẻ thù. Vua Narasingha Deva I cho xây dựng Đền Mặt trời tại Konark để kỷ niệm những chiến thắng của mình đối với người Hồi giáo và nhiều ngôi đền, pháo đài khác.
Vào thế kỷ 16, Đế quốc Mughal (Mughal Empire, tồn tại năm 1526 – 1857) hình thành, chinh phục các vương quốc nhỏ, mở rộng lãnh thổ ra gần như toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ và một phần của Afghanistan với số dân vào giai đoạn cực thịnh lên đến 150 triệu người. Đế quốc Mughal đạt đến đỉnh vinh quang trong triều đại của Shah Jahan (trị vì năm 1628 đến 1658) và ông được coi là một trong những hoàng đế Mughal vĩ đại nhất. Trong giai đoạn này, kiến trúc Mughal có các công trình nổi tiếng như: Taj Mahal và Moti Masjid tại Agra, Pháo đài Đỏ (Red Fort), Jama Masjid, Delhi và Pháo đài Lahore (Lahore Fort).
Tiểu lục địa Ấn Độ dần bị Anh thôn tính, dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ 18 và nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của Anh từ giữa thế kỷ 19.
Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947, sau cuộc đấu tranh giành độc lập do Mahatma Gandhi (năm 1869 – 1948) lãnh đạo.
Ngày nay, Ấn Độ là một liên bang, bao gồm 29 bang và 7 vùng lãnh thổ thuộc liên bang. Dưới bang là đơn vị hành chính: quận (huyện, khu); phân khu và làng xã.
Kiến trúc đền thờ Hindu giáo
Ấn Độ nổi tiếng với các ngôi đền Hindu giáo (Ấn Độ giáo).
Kiến trúc đền thờ Hindu giáo được coi là hình thức tiêu biểu của kiến trúc Hindu giáo.
Kiến trúc đền thờ Hindu giáo tại Ấn Độ có nhiều phong cách khác nhau, nhưng phổ biển có 2 phong cách : Kiến trúc Nagara ở miền bắc Ấn Độ và Kiến trúc Dravidian ở miền nam Ấn Độ. Trong giai đoạn sau này, phong cách kiến trúc được đặt theo tên của vương triều mà ngôi đền xây dựng tại đó.
Dấu tích của những ngôi đền Hindu giáo đầu tiên (được cho có mặt bằng hình elip) xuất hiện vào thế kỷ 3 TCN gắn liền với giai đoạn đầu của giáo phái Vaishnavism. Những ngôi đền này có sàn rộng, cột được dựng từ gạch nung. Cấu trúc của đền Hidu thời đó đã bao gồm: Garbhagriha (thánh đường), Pradakshinapatha (lối đi vòng quanh), Antarala (gian bên cạnh điện thờ - Sanctum) và Mandapa (sảnh tập trung). Các không gian này được phân cách bởi các bức tường dày. Điện thờ có diện tích 30m x 30m. Cấu trúc mái của ngôi đền làm bằng gỗ, trát vữa bùn.
Những ngôi đền Hindu giáo bằng đá xuất hiện vào thế kỷ 4 hoặc sớm hơn. Đầu tiên là những ngôi đền tạc vào trong vách đá. Hiện chỉ còn lưu giữ lại những ngôi đền bằng đá từ thế kỷ 7. Cũng từ thời gian này, nhiều phong cách kiến trúc địa phương đã xuất hiện cùng với sự ảnh hưởng chính trị do những ngôi đền lớn thường được xây dựng với sự bảo trợ của hoàng gia. Tại miền bắc Ấn Độ, sự xâm chiếm của người Hồi giáo đã làm cho nhiều ngôi đền bị phá hủy và có ít ngôi đền được xây dựng mới. Tại miền nam Ấn Độ, vùng đất do người Hindu kiểm soát, nhiều ngôi đền mới được xây dựng với quy mô được mở rộng và phong cách kiến trúc thêm phong phú.
Địa điểm thích hợp để xây dựng một ngôi đền Hindu giáo được cho là nơi có cảnh quan đẹp đẽ, có thể đón được các vị thần xuống vui chơi, thường là hợp lưu của các con sông, bờ sông, hồ và biển. Trong trường hợp không có nước, người ta tạo ra các hồ nước tự nhiên.
Đây còn là địa điểm khuyến khích sự suy tư, tạo điều kiện thanh lọc tâm trí và kích hoạt quá trình nhận thức nội tâm bên trong của những người tôn sùng Hindu giáo.
Một ngôi đền Hindu giáo thường có cấu trúc đối xứng, nhiều lớp đồng tâm với nhiều biến thể, tự lặp lại xung quanh lõi của ngôi đền là Điện thờ (Garbhagriha), nơi trú ngụ của vị thần chính được thờ trong đền. Phía trên Điện thờ là Tháp mái (Sikhara). Cấu trúc này được cho là khởi nguồn từ những quan niệm về niềm tin, thần bí và sự phức tạp theo nguyên tắc toán học, hình học.
Mặt bằng đền thờ Hindu giáo dựa trên hệ lưới Manduka Mandala, là hệ lưới vuông theo một hệ đơn vị ô vuông (padas). Từ đây tạo được các hình dạng hình học hoàn hảo như hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật, thể hiện triết lý : Tất cả mọi thứ là một và được kết nối với nhau. 1 pada được coi là một ô vuông đơn giản nhất, như một chỗ cho một ẩn sĩ hoặc tín đồ ngồi và thiền định, tập yoga hoặc cúng dường với ngọn lửa tế lễ Vệ Đà ở phía trước.
Khuôn mẫu cho một ngôi đền nhỏ nhất là có 9 ô vuông (3 x 3) với một ô trung tâm; ô tại góc tính thành 2 ô gắn với đường chéo, không kể các ô tại trung tâm.
Hệ lưới gồm 64 ô (8 x 8) được cho là thông dụng nhất.
Trong một số ngôi đền, hệ lưới ô vuông có thể mở rộng lên tới 81 ô (9 x 9), 1024 ô (32 x 32). Một số ngôi đền ngoại lệ, các ô không tạo thành một tổng thể hình vuông mà có thể tạo thành hình chữ nhật, ví dụ như 15 ô (3 x 5) ; 20 ô (4 x 5).
Ví dụ dưới đây thể hiện mặt bằng của ngôi đền điển hình có cấu trúc 64 ô (padas), tạo thành 4 vòng :
Vòng trong cùng : Brahma Padas, nơi ở của thần linh chính được thờ trong đền và thường lấy tên thần để đặt tên đền, ví dụ đền Vishnu, đền Krishna, đền Rama …; gồm 4 ô (2 x 2)
Vòng tiếp theo : Devika Padas, nơi ở các vị thần linh phụ; gồm 16 ô (4 x 4);
Vòng tiếp theo : Mausha Padas, nơi ở của con người, mang tính biểu tượng về sự lựa chọn giữa thiện và ác; gồm 36 ô (6 x 6).
Vòng ngoài cùng : Paisachika Padas, nơi ở của ma quỷ (Paisachikas - quỷ), sợ hãi, nghi ngờ, đau khổ; gồm 64 ô ( 8 x 8). Tại vòng này, các ô ở mặt phía đông có 2 ô (padas) thể hiện sự hy vọng và trấn áp mang tên Surya (thần Mặt trời), Indra (thần Sấm sét).
Sơ đồ mặt bằng đền thờ Ấn Độ giáo Manduka Mandala dựa trên hệ lưới gồm 64 ô/padas (8 x 8) và đường chéo.
Cấu trúc xây dựng Tháp mái theo mô hình Phân dạng Fractal tại các ngôi đền trong Quần thể di tích Khajuraho, Ấn Độ
Kiến trúc một ngôi đền Hindu giáo theo phong cách Nagara (miền bắc Ấn Độ); Những yếu tố cốt lõi này xuất hiện từ ngôi đền cổ nhất còn sót lại từ thế kỷ thứ 5 - 6 sau Công nguyên.
Không gian chức năng chính của đền thờ Hindu giáo thường bao gồm :
Ardhamandapa : Hiên trước đền thờ (Entrance porch), được trang trí công phu ;
Mandapa : Tiền sảnh ngoài (Hall) ;
Maha Mandapa : Tiền sảnh trong (Great hall) ;
Antarala : Tiền đường (Vestibule) ;
Garbhagriha : Điện thờ hay không gian trung tâm của ngôi đền, nơi đặt linh vật thờ chính, nằm dưới Tháp mái (Shrine inside the sikhara) ; Đây thường là không gian trống, không có trang trí, tượng trưng cho mục đích, nguyên tắc tối cao của cuộc sống con người, đấng linh thiêng, là một cái không có hình thức, song lại hiện diện ở khắp mọi nơi, kết nối mọi thứ và mọi người.
Pradakshinapatha : Lối đi vòng quanh theo chiều kim đồng hồ cho các nghi lễ và cầu nguyện;
Antarala : Gian bên cạnh Điện thờ - Sanctum ;
Sikhara : Tháp mái (Vimana/ Tower/ Spire) phía trên Điện thờ; có nhiều kiểu dáng, nhưng đều có độ chính xác toán học và tính hình học ; gắn với biểu tượng núi Kailash hoặc núi Meru, núi Tu Di (cao 6638m so với mực nước biển, tại Tây Tạng, là một ngọn núi thiêng với 5 đỉnh), được xem như trung tâm vật lý, siêu hình và tinh thần trong vũ trụ học của Ấn Độ giáo, Jaina giáo và Phật giáo. Khối tháp được thiết kế theo phân lớp đồng tâm với mặt bằng hình tròn hoặc hình vuông xoay vòng ;
Amlaka : Đĩa đá (có khía xung quanh, biểu tượng cho bông sen) đặt phía trên Tháp Sikhara ;
Kalasa : Búp sen phía trên đỉnh Tháp Sikhara ;
Urushringa : Tháp phụ hỗ trợ Tháp chính (Subsidiary Sikhara) ;
Jagati : Mặt sân (platform), thường cao hơn hẳn so với mặt nền đất xung quanh.
Adhisthana : Bệ nền hay nền nhà (Base Platform), thường đặt cao so với mặt sân gắn với một cầu thang nhiều bậc phía trước đền.
Ngoài đền thờ chính, trong khu vực đền còn có các đền phụ, đặt tại 4 góc của đền chính.
Cột trụ bên trong ngôi đền Hindu giáo đều được chạm khắc phù điêu và tượng thể hiện 4 mục tiêu hoặc mục đích của cuộc sống con người
(Purusarthas): Artha (Thịnh vượng, giá trị kinh tế), Kama (Tình dục và tình yêu, giá trị tâm lý) ; Dharma (Pháp – Chính nghĩa, giá trị đạo đức) và Moksha (Giải thoát, giá trị tinh thần).
Kỹ thuật xây dựng đền được tạo bởi các nhóm kiến trúc sư, nghệ nhân và thợ. Công nghệ xây dựng được lưu giữ theo gia đình, hiệp hội và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nguồn tài chính để thực hiện xây dựng đền đến từ các nhà tài trợ và cũng là người đặt hàng cho hiệp hội xây dựng.
Phong cách kiến trúc đền thờ Ấn Độ giáo không chỉ là kết quả của thần học, ý tưởng tâm linh và các văn bản Ấn Độ giáo thời kỳ đầu mà còn là kết quả của sự đổi mới do nguồn nguyên liệu sẵn có trong khu vực và khí hậu địa phương. Một số vật liệu xây dựng được nhập khẩu từ các vùng xa xôi, nhưng phần lớn các ngôi đền được xây dựng từ các vật liệu sẵn có, trước hết là các loại đá xây dựng.
Ngay từ thế kỷ thứ 2, kiến trúc ngôi đền Hindu giáo đã lan truyền sang khu vực Đông Nam Á, trong đó có vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại miền nam Việt Nam với những ngôi đền thờ thần Mặt trời, Shiva và Vishnu (một trong những nhân tố hình thành nền văn hóa Óc Eo, tại tỉnh An Giang, Việt Nam, là một hải cảng sầm uất thời bấy giờ của vương quốc Phù Nam, từ thế kỷ 2 TCN – thế kỷ 12 sau Công nguyên).
Đến thế kỷ 14, nhiều ngôi đền Hindu giáo đã được xây dựng ở Myanmar, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam. Tôn giáo ngoại nhập này (thường trộn lẫn Hindu giáo và Phật giáo) góp phần phát triển tôn giáo bản địa tại nhiều quốc gia Đông Nam Á, ngoại trừ Malaysia và Indonesia, nơi Hồi giáo chiếm ưu thế.
Madhya Pradesh là một bang ở miền trung Ấn Độ. Thủ phủ là thành phố Bhopal.
Vào thế kỷ thứ 9 - 13, nằm tại trung tâm của bang này là vương triều Chandela (Chandela Kingdom, tồn tại từ thế kỷ 9 - 13). Những người Chandelas cai trị phần lớn vùng Bundelkhand (khi đó được gọi là Jejakabhukti ). Thủ đô ban đầu của vương triều là Khajuraho.
Bản đồ Ấn Độ và vị trí bang Madhya Pradesh
Bản đồ Châu Á vào năm 1200 và ranh giới của vương triều Chandelas
Nghệ thuật và kiến trúc của vương triều Chandelas đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 10 và 11.
Tại cố đô Khajuraho của vương triều Chandelas hiện vẫn còn lưu giữ được nhóm các ngôi đền thuộc nhánh Vaishnavism, Saivism của Ấn Độ giáo (Hinduism) và Jaina giáo (Jainism). Hầu hết các ngôi đền được xây dựng từ năm 885 - 1050.
Tại Khajuraho, vào thế kỷ 12 có tới 85 ngôi đền trải rộng trên diện tích 20km2. Trong số này, hiện chỉ còn lại 25 ngôi đền trên diện tích rộng 6km2. Đây là các ngôi đền Hindu giáo nổi tiếng với phong cách kiến trúc Nagara (Nagara Style, phong cách điển hình tại miền bắc Ấn Độ) và tác phẩm điêu khắc với những chi tiết phức tạp, mang tính biểu tượng của nghệ thuật Ấn Độ cổ đại. Những tác phẩm điêu khắc này như bài học sống động để truyền dạy cho thế hệ trẻ cho đến khi họ trưởng thành, giúp họ hiểu về vai trò của họ trong thế giới loài người.
Quần thể di tích tại cố đô Khajuraho thể hiện ở bố cục và hình thức vật chất, là đỉnh cao của sự phát triển kiến trúc đền thờ ở miền bắc Ấn Độ. Đền được xây dựng bằng đá sa thạch, đặt trên một bệ nền cao, xung quanh được trang trí công phu.
Phần lớn các ngôi đền tại cố đô Khajuraho đều hướng về phía đông và được khai triển theo hệ lưới Manduka Mandala 64 ô (padas) với 4 lớp không gian.
Các ngôi đền tại cố đô Khajuraho lưu giữ nhiều tác phẩm nghệ thuật. Nổi bật là tác phẩm điêu khắc thể hiện 4 mục tiêu hoặc mục đích của cuộc sống con người: Artha (Thịnh vượng), Kama (Tình dục) ; Dharma (Chính nghĩa) và Moksha (Giải thoát).
Tại đây có tới 10% các bức chạm khắc có chủ đề về tình dục (Kama) với các tư thế quan hệ tình dục khác nhau và là một trong những hình ảnh phổ biến trong các ngôi đền Hindu giáo. Các bức chạm khắc theo chủ đề Kama tại đây được cho là đỉnh cao của nghệ thuật tình dục ; thể hiện nghệ thuật truyền thống của một xã hội có tư tưởng rộng mở ; tượng trưng cho mong muốn về khả năng sinh sản và lưu truyền giống nòi ; thể hiện sự kết hợp của vũ trụ thông qua các yếu tố nam nữ.
90% các bức chạm khắc còn lại miêu tả các chủ đề về Artha, Dharma, Moksha qua các câu chuyện thần thoại, cuộc sống thế tục hàng ngày, ví dụ như : hình tượng người phụ nữ trang điểm, nhạc công biểu diễn, thợ gốm, nông dân và những người lao động khác thời kỳ Trung cổ.
Các ngôi đền tại cố đô Khajuraho được làm bằng đá sa thạch với bệ nền bằng đá granit.
Đền được xây dựng theo kiểu không dùng vữa. Những viên đá được ghép chính xác với nhau bằng các khớp mộng và được giữ cố định bằng trọng lực. Hệ thống cột đỡ trần bằng đá cự thạch nặng, có viên nặng tới 20 tấn.
Đá xây dựng tại đây là đá sa thạch với chất lượng vượt trội, có thể chạm khắc tinh xảo (thể hiện được chi tiết tóc, móng tay, đồ trang sức). Để xây dựng những ngôi đền này, phải huy động một số lượng hàng trăm nhà điêu khắc được đào tạo chuyên sâu.
Tại đây phổ biến cấu trúc xây dựng, trang trí phỏng theo mô hình Fractal. Đây là mô hình Phân dạng, được tạo từ từng phần, mỗi phần trông giống như hình tổng thể, nhưng ở tỷ lệ phóng đại nhỏ hơn, và có vô tận các chi tiết.
Trong các ngôi đền tại cố đô Khajuraho không chỉ có tượng, phù điêu mà còn có các mảng chạm khắc chữ. Nội dung các mảng chạm khắc là bài thơ, truyền thuyết tôn giáo, phần lớn bằng tiếng Phạn.
Quần thể di tích tại Khajuraho, bang Madhya Pradesh, Ấn Độ được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa (năm 1986) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Quần thể di tích tại Khajuraho là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người trong lĩnh vực kiến trúc cũng như phong cách trang trí điêu khắc chất lượng cao, miêu tả các hình tượng với nhiều ý nghĩa linh thiêng hoặc thế tục.
Tiêu chí (iii): Các ngôi đền ở Khajuraho là bằng chứng đặc biệt về nền văn hóa Chandella, phát triển mạnh mẽ ở miền trung Ấn Độ, trước khi Vương quốc Hồi giáo Delhi được thành lập vào đầu thế kỷ 13 CN.
Quần thể Di sản gồm 15 cụm công trình chính, phân thành 3 nhóm : Nhóm các ngôi đền phía Tây ; Nhóm các ngôi đền tại phía Đông và Nhóm các ngôi đền tại phía nam.
Sơ đồ vị trí 3 nhóm công trình tại Quần thể di tích Khajuraho, Madhya Pradesh, Ấn Độ
Sơ đồ vị trí một số ngôi đền chính tại Quần thể di tích Khajuraho, Madhya Pradesh, Ấn Độ
Nhóm các ngôi đền tại phía Tây
Nhóm các ngôi đền tại phía Tây gồm 4 quần thể.
Sơ đồ Nhóm các ngôi đền tại phía Tây, Quần thể di tích Khajuraho, Madhya Pradesh, Ấn Độ
Quần thể đền được bảo vệ
Quần thể đền được bảo vệ (Protected Temple Area) nằm tại phía tây Khu vực Di sản (N24 51 9.00 E79 55 15.00); gồm một số ngôi đền chính :
Đền Lakshmana (Lakshmana Temple) là một ngôi đền Hindu giáo, nằm tại phía đông nam của Quần thể. Đền được vua Yashovarman (vương triều Chandela, trị vì năm 925- 950) xây dựng vào năm 930- 950.
Đền thờ thần Vaikuntha, thế thân của thần Vishnu. Xung quanh Đền thờ chính có 4 Đền thờ phụ (Subsidary Shrine) tại 4 góc sân Đền.
Đền được đặt trên một mặt sân cao (Jagati) và có cấu trúc điển hình của ngôi đền Hindu giáo gồm : Hiên trước điện thờ (Ardhamandapa) ; Tiền sảnh ngoài (Mandapa) ; Tiền sảnh trong (Maha Mandapa) ; Tiền đường (Antarala) và Điện thờ (Garbhagriha).
Tháp mái (Sikhara) phía trên Điện thờ được tập hợp bởi các Tháp phụ (Urushringa) có hình dạng tượng tự như đỉnh của Tháp chính.
Phần tường có những ô cửa sổ có lan can trang trí công phu. Trên tường là những bức chạm khắc hình ảnh các vị thánh thần và đôi nam nữ quan hệ tình dục. Cửa ra vào đền có bức chạm khắc theo kiểu tấm dọc mô tả hóa thân các vị thần Hindu giáo như Brahma, Vishnu, Lakshmi…Thống kê được tại đây có tới 600 hình ảnh các vị thần.
Phối cảnh tổng thể Đền Lakshmana, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt cắt Đền Lakshmana, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng Đền Lakshmana, Khajuraho, Ấn Độ
Linh vật chính - tượng thần Vishnu (ba đầu) bên trong Điện thờ, Đền Lakshman, Khajuraho, Ấn Độ
Trang trí các bức chạm khắc trên dải tường ngoài Đền Lakshmana, Khajuraho, Ấn Độ
Bức chạm khắc mô tả đời sống thường nhật, Đền Lakshmana, Khajuraho, Ấn Độ
Một ô trang trí tượng thần Ganesha (đầu voi, mình người), Đền Lakshmana, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Pravati (Pravati Temple) nằm tại phía đông của Quần thể, thờ nữ thần Parvati, phối ngẫu của thần Shiva.
Đền hiện chỉ còn lại phần Điện thờ với Tháp mái bên trên. Toàn bộ Hiên, Tiền sảnh và Tiền đường chỉ còn lại tàn tích một phần bệ nền.
Cổng vòm phía trên Điện thờ còn lưu giữ được các bức chạm khắc mô tả thần Brahma, Vishnu và Shiva.
Bức tường cạnh Điện thờ còn lưu giữ được những bức chạm khắc thể hiện nam nữ quan hệ tình dục.
Các bức tường phía sau Điện thờ không có các bức chạm khắc nào.
Phối cảnh tàn tích phần Điện thờ và Tháp mái, Đền Pravati, Khajuraho, Ấn Độ
Trang trí trên mặt trước của Điện thờ, Đền Pravati, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Vishvanatha (Vishvanatha Temple) nằm tại phía đông bắc của Quần thể. Đền thờ thần Shiva, được xây dựng vào năm 999 – 1002.
Đền Vishvanatha cùng với Đền Lakshmana (xây dựng vào năm 930- 950) và Đền Kandariya Mahadeva kề liền (xây dựng vào khoảng năm 1030) là 3 ngôi đền đại diện cho phong cách đầy đủ và định hình nhất tại cố đô Khajuraho.
Đền Vishvanatha được thiết kế theo kiểu Panchayatana, là một kiểu đền có điện thờ chính được bao quanh bởi 4 điện thờ phụ (Subsidary Shrine) tại 4 góc. Hiện chỉ còn tồn tại 2 đền phụ, hướng về phía đông. Đền phụ tại phía đông thờ thần Nandi (hình tượng con bò đực, vật cưỡi của thần Shiva) với bức tượng cao 2,2m. Đền phụ tại phía tây nam thờ thần nữ Parvati, phối ngẫu của Shiva. Đền bị hư hại một phần chỉ còn lại Điện thờ (Garbhagriha và Tháp mái (Shikhara).
Điện thờ chính có kích thước 27,5m x 13,7m, gồm : Hiên trước điện thờ (Ardhamandapa) ; Tiền sảnh nhỏ phía ngoài (Mandapa) ; Tiền sảnh trong (Maha Mandapa) ; Tiền đường (Antarala) và Điện thờ (Garbhagriha) với Tháp mái bên trên (Sikhara).
Đền nằm trên một bệ nền. Xung quanh bệ nền có một số tác phẩm điêu khắc miêu tả Saptamatrikas (bảy nữ thần), nữ thần Parvati và thần Ganesha (đầu voi, mình người, con trai của thần Shiva và nữ thần Parvati) đang khiêu vũ . Cầu thang dẫn từ sân lên bệ nền có tượng sư tử và voi ở hai bên.
Bên trong Điện thờ còn lưu giữ linh vật là Linga bằng đá. Tại đây còn có một Linga bằng ngọc lục bảo, hiện không còn. Xung quanh Điện thờ có một lối đi vòng quanh (Pradakshinapatha). Điện thờ có ban công tại 3 mặt để lấy ánh sáng và thông gió.
Đá sa thạch là vật liệu xây dựng chính được sử dụng.
Cột trụ, tường và trần của Đền thờ có vô số các bức điêu khắc miêu tả các vị thần khác nhau, tiên nữ, sinh vật thần thoại và các cặp đôi quan hệ tình dục. Kiểu tóc, quần áo có hoa văn, trang sức, hình thể và khuôn mặt biểu cảm của các nhân vật trong các bức điêu khắc rất đặc sắc.
Phối cảnh Đền Vishvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng Đền Vishvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Lối lên Đền Vishvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Không gian phía trước Điện thờ với biểu tượng Linga bằng đá, Đền Vishvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Trang trí tường bên ngoài Điện thờ, Đền Vishvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Bức chạm khắc mô tả đôi lứa yêu nhau trên tường ngoài Điện thờ, Đền Vishvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Đền phụ tại phía đông thờ thần bò Nandi, Đền Vishvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Jagadambi (Jagadambi Temple) nằm tại phía tây bắc của Quần thể ; đặt theo tên của Jagadambika, một nữ thần Hindu. Đền được xây dựng vào năm 1000 – 1025, cùng chung sân với Đền Kandariya Mahadeva.
Không gian bên trong Đền nhỏ hơn so với các ngôi đền khác trong Nhóm các ngôi đền tại phía Tây, song đây là một trong những ngôi đền được trang trí tinh xảo nhất ở Khajuraho, thể hiện rõ nét tại 3 dải chạm khắc bao quanh thân mặt ngoài và bên trong Đền. Linh vật thờ bên trong Điện thờ là tượng khổng lồ nữ thần Parvati.
Phối cảnh tổng thể Đền Jagadambi, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng và mặt cắt Đền Jagadambi, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng tháp mái, Đền Jagadambi, Khajuraho, Ấn Độ
Không gian phía trước Điện thờ, Đền Jagadambi, Khajuraho, Ấn Độ
Tượng nữ thần Parvati bên trong Điện thờ, Đền Jagadambi, Khajuraho, Ấn Độ
Hốc trang trí xung quanh tường ngoài, Đền Jagadambi, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Chitragupta (Chitragupta Temple) nằm kề liền phía bắc của Đền Jagadambi. Đền thờ thần Surya (thần mặt trời), được xây dựng vào năm 1020 - 1025.
Về mặt kiến trúc, Đền rất giống với Đền Jagadambi kề liền, song được trang trí công phu hơn. Tòa nhà có hai ban công. Trong Đền có một bức tượng thần Surya cao 2,1m đang cưỡi trên một cỗ xe với 7 con ngựa.
Các bức tường bên ngoài của ngôi Đền được bao phủ bởi bức chạm khắc các đôi nam nữ đang quan hệ tình dục, tiên nữ (Surasundari) và các vị thần khác nhau, bao gồm cả thần Vishnu 11 đầu.
Phối cảnh tổng thể Đền Chitragupta, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Đền Chitragupta, Khajuraho, Ấn Độ
Trang trí tường ngoài, Đền Chitragupta, Khajuraho, Ấn Độ
Bức chạm các tiên nữ, Đền Chitragupta, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Kandariya Mahadeva (Kandariya Mahadeva Temple) nằm tại phía tây của Quần thể, nằm chung sân với Đền Jagadambi. Đền được xây dựng từ năm 1025-1050, có mặt bằng dài 31m, rộng 20m với tháp chính phía trên điện thờ cao tới 31m ; là công trình lớn nhất trong khu phức hợp Khajuraho.
Đền thờ thần Shiva. Ngôi đền được coi là ấn tượng và tinh tế nhất trong quần thể Khajuraho, với hơn 900 tác phẩm điêu khắc được chạm khắc trên đá sa thạch xếp chồng lên nhau mà không cần vữa. Bên ngoài được chạm khắc rực rỡ, tương phản với không gian bên trong trang trí đơn giản.
Đền Kandariya Mahadeva được xây dựng dưới thời vua Vidyadhara (trị vì năm 1003-1035).
Đền được đặt trên một sân cao 4m với một loạt bậc thang từ mặt đất dẫn đến mặt bệ nền.
Đền có cấu trúc tương tự như các ngôi đền Hindu giáo theo phong cách Nagara (miền bắc Ấn Độ). Ngay từ lối vào, Đền đã có những bức chạm khắc tinh xảo thể hiện hình ảnh của các vị thần, nữ thần, nhạc công, vũ nữ, tiên nữ.
Tháp mái trên Điện thờ được tạo thành bởi 84 ngọn tháp nhỏ.
Bên trong các hốc tường là các bức chạm khắc thể hiện các đôi nam nữ quan hệ tình dục.
Các chi tiết trang trí trong Đền được cho là tổ hợp theo kiểu Hình học Fractal.
Phối cảnh tổng thể Đền Kandariya Mahadeva, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt cắt Đền Kandariya Mahadeva, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng Đền Kandariya Mahadeva, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ hệ thống tháp mái chính và phụ, Đền Kandariya Mahadeva, Khajuraho, Ấn Độ
Hệ thống Tháp mái chính và 84 Tháp phụ, Đền Kandariya Mahadeva, Khajuraho, Ấn Độ
Bên trong không gian phía trước Điện thờ, Đền Kandariya Mahadeva, Khajuraho, Ấn Độ
Bức chạm khắc về chủ đề tình dục tại Đền Kandariya Mahadeva, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Chausath Jogini
Đền Chausath Jogini (Chausath Jogini Temple) nằm tại phía nam của Khu vực Quần thể đền được bảo vệ (N24 50 59.071 E79 55 5.221). Đền có niên đại vào khoảng năm 885, là ngôi đền cổ nhất còn sót lại ở Khajuraho.
Đây là một ngôi đền dạng Yogini tại Ấn Độ. Đền không có mái, thờ các Yoginis , những nữ bậc thầy về yoga trong Tantra Hindu (Mật tông, truyền thống bí truyền của Ấn Độ giáo và Phật giáo, xuất hiện từ thế kỷ 1 trở đi), trong đó có nữ thần Parvati. Đền thường có mặt bằng hình tròn và chữ nhật, xuất hiện tại miền bắc và trung Ấn Độ, thuộc giáo phái Shaivism.
Đền Chausath Jogini có mặt bằng hình chữ nhật kích thước 31,4m x 18,3m, đặt trên một nền sân cao 5,4m.
Ngôi đền được làm bằng những khối đá granit thô và lớn với một sân mở ở trung tâm.
Sân ban đầu được bao quanh bởi 65 ô thờ: 10 ô ở bức tường phía trước (phía bắc), 11 ô ở bức tường phía sau và 22 ô ở mỗi bên. Hiện chỉ có 35 trong số 65 ô này còn tồn tại. Mỗi ô có một cửa giới hạn bởi hai cột đá granit hình vuông và một mái vòm phía trên. Các ô phòng này là nơi đặt tượng thờ của các Yoginis.
Đền được trang trí bởi các bức tượng nữ thần, hiện đã không còn.
Mặt bằng với 65 ô thờ, trong đó có một ô thờ lớn ở trung tâm bức tường đối diện với lối vào, Đền Chausath Jogini, Khajuraho, Ấn Độ
Phối cảnh một góc tàn tích Đền Chausath Jogini, Khajuraho, Ấn Độ
Công trình Chopra
Công trình Chopra hay bể hình vuông (Chopra or square tank) cạnh Đền Chitragupta 180m về phía bắc, song nằm bên ngoài nhóm Các đền thờ phía tây (N24 51 22.198 E79 55 10.65). Bể chứa có mặt bằng hình vuông. Chính giữa bể là một tòa tháp cao 3 tầng. Công trình được xây dựng vào thế kỷ 11, hiện chỉ còn lại tàn tích. Nước trong bể được cho liên quan đến việc chữa lành bệnh tật.
Phối cảnh tàn tích bể hình vuông Chopra, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Laguan Mahadeva
Đền Laguan Mahadeva (Laguan Mahadeva Temple) nằm tại phía bắc của Khu vực Di sản, cạnh hồ Lalguan Sagar (N24 51 3.197 E79 54 40.558).
Đền được xây dựng vào năm 900, hiện chỉ còn lại tàn tích. Đây là ngôi đền lâu đời thứ hai sau Đền Chausath Jogini. Cả hai ngôi Đền được xây dựng bằng đá granit. So với các đền xây dựng sau này, công trình có kích thước nhỏ và thiết kế đơn giản.
Đền Lalguan Mahadev có hình tượng Sardula nửa người nửa sư tử.
Tàn tích Đền Laguan Mahadeva, Khajuraho, Ấn Độ
Nhóm các ngôi đền tại phía Đông
Nhóm các ngôi đền tại phía Đông gồm 9 ngôi đền :
Đền Brahma
Đền Brahma (Brahma Temple) nằm tại phía đông Khu vực Di sản, cạnh hồ Khajuraho Sagar (N24 50 56.832 E79 55 57.738).
Đền được xây dựng và giữa thế kỷ 9 – nửa đầu thế kỷ 10. Ban đầu Đền thờ thần Vishnu.
Bên trong Điện thờ có linh vật là một lingam bốn mặt, biểu tượng của thần Shiva với khuôn mặt không hoàn toàn giống nhau.
Các cửa sổ phía tây và các vị trí trung tâm Điện thờ có hình tượng Vishnu.
Đền được xây dựng bằng đá granit, khác với nhiều ngôi đền được xây dựng bằng đá sa thạch (đá mềm).
Đền có cấu trúc xây dựng đơn giản. Mái hiên ban đầu hiện đã không còn.
Phối cảnh tàn tích Điện thờ, Đền Brahma, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt, mặt bên tàn tích Điện thờ, Đền Brahma, Khajuraho, Ấn Độ
Linh vật Shiva Linga bên trong Điện thờ, Đền Brahma, Khajuraho, Ấn Độ
Tượng thần khỉ Shri Hanuman
Tượng thần khỉ Shri Hanuman (Colossal statue of Shri Hanuman) nằm tại phía đông Khu vực Di sản (N24 51 0.112 E79 55 43.068).
Tượng thần khỉ cao 2,5m, được sơn phủ màu đỏ. Trên bệ tượng có dòng chữ được khắc vào năm 922. Tượng được cho là một trong những bức tượng sớm nhất về thần khỉ Shri Hanuman tại Ấn Độ.
Tượng khỉ thần Shri Hanuman, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Ghanti
Đền Ghanti (Ghanti/Ghantai Temple) nằm tại phía đông Khu vự Di sản (N24 50 46.057 E79 56 0.269), là ngôi đền Jaina giáo.
Đền thờ thần Jain tirthankara Rishabhanatha (còn được gọi là Adinatha). Đền chỉ còn lại tàn tích hệ thống khung cột, dầm.
Tàn tích Đền Ghanti, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Javari
Đền Javari (Javari Temple) nằm tại phía đông Khu vực Di sản (N24 50 58.006 E79 56 6.94).
Đền được xây dựng vào năm 975 – 1100, thờ thần Shiva.
Đền có kiến trúc cân đối, tôn nghiêm với các chức năng thông thường của một ngôi đền Hindu giáo, như Hiên trước Điện thờ, Tiền sảnh và Điện thờ, nhưng không có lối đi vòng quanh Điện thờ.
Linh vật là bức tượng thờ đã bị gãy, không đầu.
Cổng vào Đền có bức chạm khắc mô tả các vị thần Hindu : Brahma , Vishnu. Trên vòm trần có bức chạm thể hiện các vị thần biểu tượng cho các vì sao. Đền có hai dải điêu khắc trên bức tường bên ngoài.
Phối cảnh tổng thể Đền Javari, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Đền Javari; Bên phải ảnh là sơ đồ mặt bằng, mặt cắt tàn tích Đền Ghanti, Khajuraho, Ấn Độ
Trang trí với nhiều lớp trên trần, Đền Javari, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Khakra Marh
Đền Khakra Marh (Khakra Marh Temple) nằm tại phía đông Khu vực Di sản, trên một gò đất đá (N24 51 12.00 E79 56 58.00).
Đền hiện chỉ còn lại tàn tích hệ thống khung cột, dầm và một số tượng trang trí.
Phối cảnh tàn tích Đền Khakra Marh, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Vamana
Đền Vamana (Vamana Temple) nằm tại phía đông của Khu vực Di sản (N24 51 5.188 E79 56 6.054), gần hồ nước lớn.
Ngôi đền được xây dựng từ khoảng năm 1050-1075, thờ thần Vamana, một hóa thân của Vishnu.
Đền dài 19,1m, rộng 13,9m. Xung quanh thân Đền là hai dải điêu khắc với gần 3000 chi tiết miêu tả các vị thần, nhân vật nữ và sinh vật thần thoại.
Phối cảnh tổng thể Đền Vamana, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt cắt Đền Vamana, Khajuraho, Ấn Độ
Các bức chạm khắc trang trí trên các dải tường bên ngoài Đền Vamana, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Adinatha
Đền Adinatha (Adinath Temple) nằm tại phía đông của Khu vực Di sản (N24 50 42.5 E79 56 11.8), trong Quần thể các ngôi đền Jaina giáo (Jain Complex), cùng với Đền Parsvanatha.
Đền thờ thần Jaina giáo (Tirthankara) Adinatha, được xây dựng vào cuối thế kỷ 11.
Trong Điện thờ (Garbhgraha) đặt linh vật là bức tượng (đá đen) của thần Adinatha. Bệ tượng có dòng chữ khắc bằng tiếng Phạn về người hiến tặng và nhà điêu khắc tượng.
Đền hiện chỉ còn Tiền đường (Antarala) và Điện thờ (Garbhagriha).
Cấu trúc xây dựng Đền Adinatha tương tự như Đền Vamana, chỉ khác biệt về một số bức chạm khắc và hình dạng tháp mái trang nhã phía trên Điện thờ.
Các bức tường bên ngoài của Đền có 3 dải điêu khắc với các tiên nữ (Surasundaris) duyên dáng, thành phần không thể thiếu trong các ngôi đền Hindu giáo (có thể là các nữ thần Apsara nhảy múa); các cặp á thần (Vidyadhara) đang bay ; sinh vật thần thoại (Vyalas, một phần của voi, sư tử, ngựa, chim…) ; vũ công với các nhạc công. Trong các hốc tường có tác phẩm điêu khắc các vị thần Jaina giáo (Jain Yakshinis): Nữ thần Ambika, Chakreshvari và Padmavati .
Mặc dù đây là ngôi đền Jaina giáo, song các bức tường bên ngoài cũng có chạm khắc các vị thần Hindu giáo.
Phối cảnh tổng thể Đền Adinatha, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Đền Adinatha và Đền Chaturbhuja, Khajuraho, Ấn Độ
Linh vật Tượng Adinatha bên trong Điện thờ, Đền Adinatha, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Parsvanatha
Đền Parsvanatha (Parsvanatha Temple) nằm tại phía đông của Khu vực Di sản (N24 50 41.701 E79 56 12.001), trong Quần thể các ngôi đền Jaina giáo (Jain Complex), cùng với Đền Adinatha.
Đền được xây dựng từ năm 950 - 970, thờ thần Jaina giáo Parshvanatha, trước đó có thể thờ thần Adinatha.
Đền Parshvanatha là một trong số ngôi đền Jaina giáo lớn nhất tại cố đô Khajuraho .
Công trình có cấu trúc xây dựng như các ngôi đền Hindu giáo điển hình, gồm : Hiên trước đền thờ (Ardhamandapa) ; Tiền sảnh ngoài (Mandapa) và Tiền sảnh trong (Maha Mandapa) ; Tiền đường (Antarala) và Điện thờ (Garbhagriha).
Trần của Hiên trước đền thờ có hoa văn dây chuyền cùng một cặp thiên thần (Vidyadharas) đang bay đan xen.
Trên cánh cửa của Tiền sảnh có các bức điêu khắc về các vị thần hộ vệ thần Adinatha.
Các bức tường bên ngoài có ba dải điêu khắc với các tiên nữ (Surasundaris) duyên dáng ; các cặp á thần (Vidyadhara) đang bay ; sinh vật thần thoại (Vyalas, một phần của voi, sư tử, ngựa, chim…) ; vũ công với các nhạc công.
Mặc dù đây là ngôi đền Jaina giáo, song các bức tường bên ngoài cũng có chạm khắc các vị thần Hindu giáo, như : Vishnu - Lakshmi,
Rama - Sita, Balarama - Revati, Parashurama, Hanuman, Brahma và Yamalarjun.
Tại đây ít có các hình ảnh thể hiện các cặp đôi tình dục.
Ngôi đền có một dòng chữ với một hình vuông ma thuật , được gọi là "hình vuông Jaina". Đây là một trong những hình vuông ma thuật 4 × 4 lâu đời nhất được biết đến, cũng như một trong những hình vuông ma thuật hoàn hảo nhất được biết đến . Hình vuông ma thuật này chứa tất cả các số từ 1 đến 16. Tổng các số ở mọi hàng ngang, mọi cột dọc và hai hàng chéo là 34.
Phối cảnh tổng thể Đền Parsvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Đền Parsvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Hình vuông ma thuật với tổng các số ở mọi hàng ngang, mọi cột dọc và hai hàng chéo là 34, Đền Parsvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Bức tượng thần Jaina giáo (Tirthankara) cùng với tiên nữ (Surasundaris) và sinh vật huyền thoại (Vyalas) bên trong Điện thờ, Đền Parsvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Ba dải điêu khắc trên tường ngoài, Đền Parsvanatha, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Santinatha
Đền Santinatha (Santinatha Temple) là một ngôi đền Jaina giáo, nằm tại phía đông khu vực Di sản (N24 50 40.801 E79 56 11).
Đây là một cụm đền, gồm Đền chính thờ thần Tirthankara Shantinatha và 18 Đền phụ với nhiều hình ảnh biểu tượng của Jaina giáo.
Hiện, công trình là trung chính của đạo Jaina giáo tại Khajuraho.
Mặc dù ngôi đền có vẻ ngoài hiện đại, song vẫn dựa trên cấu trúc xây dựng xưa.
Cụm đền là sự kết hợp 2 ngôi đền thời kỳ Chandella và tàn tích của các ngôi đền thờ kỳ trước đó.
Cấu trúc hiện tại có thể được xây dựng vào năm 1870, có bố cục là mặt bằng là một hình tứ giác, như nhiều ngôi đền Jaina giáo của thế kỷ 19 với một sân trong ở giữa.
Đền chính, ngôi đền trung tâm, bên trong đặt linh vật tượng thần Shantinath, cao 4,3m, được dựng vào năm 1085. Tượng được bao quanh bởi tượng 24 vị thần phụ. Các ô cửa Đền chính trang trí hình ảnh nữ thần Ganga và Yamuna, hình ảnh vị thần hộ mệnh Kshetrapala .
18 Đền phụ lưu giữ các biểu tượng có từ thế kỷ 11- 12 và thế kỷ 19- 20.
Phối cảnh tổng thể Đền Santinatha, Khajuraho, Ấn Độ
Sân trong Đền Santinatha, Khajuraho, Ấn Độ
Tượng thờ thần Tirthankara Shantinatha, Đền Santinatha, Khajuraho, Ấn Độ
Nhóm các ngôi đền tại phía Nam
Nhoms các ngôi đền tại phía Nam gồm 2 ngôi đền :
Đền Duladeo
Đền Duladeo (Duladeo Temple) nằm trên bờ sông Khodar, tại phía nam khu vực Di sản (N24 50 21.401 E79 55 56.899), trải rộng trên một khu vực có diện tích 6km2.
Ngôi đền quay mặt về hướng đông và có niên đại năm 1000–1150.
Đây là ngôi đền cuối cùng được xây dựng thời kỳ vương triều Chandela (Chandelas of Jejakabhukti, tồn tại thế kỷ 9 – 13).
Đền Duladeo là một trong 22 ngôi đền thờ thần Shiva của đạo Hindu giáo, trong số 87 ngôi đền được tạo ra bởi những người cai trị vương triều Chandela.
Quần thể Đền được xây dựng trên một nền đắp cao so với mặt đất xung quanh.
Công trình được xây dựng trên một bệ nền đá cao 6 bậc so với nền đất đắp, quay về hướng đông ; cấu trúc xây dựng tương tự như các ngôi đền Hindu giáo truyền thống.
Đền được xếp hạng vào loại đền theo phong cách Nirandhara (không có lối đi vòng quanh Điện thờ).
Điện thờ trong đền rất lớn, có hình bát giác. Đền được xây dựng bằng đá không cần vữa.
Các bức tượng chạm khắc trong Đền có nét biểu cảm mềm mại không giống như những ngôi đền khác. Trên tường và trần trong Đền có các bức chạm khắc miêu tả những vũ công tiên nữ (Apsara ) trong các tư thế gợi tình. Ngoài ra, tại đây còn có chạm khắc về những sinh vật siêu nhiên (Vidyadhara) trong tư thế sống động. Ở lối vào hiên, có các tác phẩm điêu khắc về nữ thần sông.
Một hình tượng của thần Shiva được chạm khắc ngay trên lối vào Điện thờ (Garbhagriha).
Bên trong Điện thờ đặt một biểu tượng Linga. Trên bề mặt Linga được chạm khắc 99 hình tượng Linga.
Phối cảnh tổng thể Đền Duladeo, Khajuraho, Ấn Độ
Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Đền Duladeo, Khajuraho, Ấn Độ
Các dải chạm khắc tinh xảo trên tường ngoài, Đền Duladeo, Khajuraho, Ấn Độ
Đền Chaturbhuja
Đền Chaturbhuja (Chaturbhuja Temple) nằm tại làng Jatakari phía nam của khu vực Di sản (N24 49 30.335 E79 55 51.942).
Đền thờ thần Vishnu, được xây dựng vào năm 1100. Đây là ngôi đền duy nhất ở Khajuraho không có các bức chạm khắc miêu tả tình dục.
Đền có quy mô nhỏ, được xây dựng trên một bệ nền (Adhisthana) khiêm tốn, gồm : Cổng ra vào, Hiên trước đền (Ardhamandapa) ; Tiền sảnh (Mandapa), Điện thờ (Garbhagriha).
Tượng thờ trong đền là thần Vishnu có 4 tay, theo tư thế đứng, cao 2,75m.
Phối cảnh tổng thể Đền Chaturbuj, Khajuraho, Ấn Độ
Linh vật tượng thờ chính thần Vishnu tại Điện thờ, Đền Chaturbuj, Khajuraho, Ấn Độ
Mảng phù điêu trang trí trên tường ngoài, Đền Chaturbhuj, Khajuraho, Ấn Độ
Quần thể di tích tại Khajuraho, bang Madhya Pradesh, Ấn Độ bao gồm các ngôi đền Hindu giáo và Jaina giáo được xây dựng dưới triều đại Chandella, đạt đến đỉnh cao từ năm 950 đến năm 1050. Đây là những ngôi đền tạo ra sự cân bằng hoàn hảo giữa kiến trúc và điêu khắc. Vô số tác phẩm điêu khắc tại đây nằm trong số những kiệt tác vĩ đại nhất của nghệ thuật Ấn Độ.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://whc.unesco.org/en/list/240/
https://en.wikipedia.org/wiki/India
https://en.wikipedia.org/wiki/Puru%E1%B9%A3%C4%81rtha
https://en.wikipedia.org/wiki/Hindu_temple_architecture#Nagara
_(%E0%A4%A8%E0%A4%BE%E0%A4%97%E0%A4%B0) _architecture
https://en.wikipedia.org/wiki/Yogini_temples
https://en.wikipedia.org/wiki/Panchayatana_(temple)
https://en.wikipedia.org/wiki/Kamashastra
https://en.wikipedia.org/wiki/Chandelas_of_Jejakabhukti
https://en.wikipedia.org/wiki/Vidyadhara_(Chandela_king)
https://en.wikipedia.org/wiki/Yashovarman_(Chandela_dynasty)
https://en.wikipedia.org/wiki/Khajuraho_Group_of_Monuments
https://en.wikipedia.org/wiki/Lakshmana_Temple,_Khajuraho
https://en.wikipedia.org/wiki/Parvati_Temple,_Khajuraho
https://en.wikipedia.org/wiki/Vishvanatha_Temple,_Khajuraho
https://en.wikipedia.org/wiki/Nandi_Temple,_Khajuraho_India
https://en.wikipedia.org/wiki/Devi_Jagadambi_Temple
https://en.wikipedia.org/wiki/Chitragupta_Temple,_Khajuraho
https://en.wikipedia.org/wiki/Kandariya_Mahadeva_Temple
https://en.wikipedia.org/wiki/Chausath_Yogini_Temple,_Khajuraho
https://en.wikipedia.org/wiki/Yogini_temples
https://en.wikipedia.org/wiki/Lalguan_Mahadeva_Temple
https://en.wikipedia.org/wiki/Brahma_Temple,_Khajuraho
https://en.wikipedia.org/wiki/Khajuraho_Hanuman_inscription
https://en.wikipedia.org/wiki/Ghantai_temple
https://en.wikipedia.org/wiki/Javari_Temple,_Khajuraho
https://en.wikipedia.org/wiki/Vamana_Temple,_Khajuraho
https://en.wikipedia.org/wiki/Adinatha_temple,_Khajuraho
https://en.wikipedia.org/wiki/Parshvanatha_temple,_Khajuraho
https://en.wikipedia.org/wiki/Shantinatha_temple,_Khajuraho
https://en.wikipedia.org/wiki/Duladeo_Temple
https://en.wikipedia.org/wiki/Chaturbhuj_Temple_(Khajuraho)
http://www.art-and-archaeology.com/india/khajuraho/kha0.html
https://www.orientalarchitecture.com/cid/34/india/khajuraho
https://tspasibhopal.nic.in/gallery/khajuraho_drawings_gallery/khajuraho_drawings_gallery.html
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|