
Thông tin chung:
Công trình: Mộ và Khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu
Địa điểm: huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, Việt Nam
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Năm hình thành:
Giá trị: Di tích quốc gia đặc biệt (Di tích lịch sử, năm 2016)
Bến Tre là một tỉnh nằm ở phía đông bắc vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), cuối nguồn sông Cửu Long, tiếp giáp biển Đông và các tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long.
Bến Tre được hợp thành bởi Cù lao An Hóa, Cù lao Bảo, Cù lao Minh và do phù sa 4 nhánh sông của hệ thống sông Mê Công bồi tụ thành.
Bến Tre có tổng diện tích tự nhiên 239.475ha, chiếm 5,9% diện tích vùng, 0,72% diện tích cả nước; dân số khoảng 1,288 triệu người (năm 2019), đứng thứ 7 trong số 13 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL.
Vùng đất mang tên Bến Tre là do địa điểm này trồng nhiều tre; vào đầu thế kỷ 18 còn hoang hóa. Người Việt đến khai phá và định cư, biến đây thành nơi sản xuất dừa, trái cây và gạo ngon nổi tiếng. Ngày 15/7/1867, vào thời Pháp thuộc, hạt Bến Tre được thành lập; Ngày 22/12/1899, hạt Bến Tre được đổi tên thành tỉnh Bến Tre.
Ngày nay, tỉnh Bến Tre có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm: thành phố thủ phủ Bến Tre (đô thị loại 2, từ 13/2/2019) và 8 huyện: Ba Tri, Bình Đại, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú. Trong đó có 164 đơn vị hành chính cấp xã gồm có 7 thị trấn, 10 phường và 147 xã.
Bến Tre là tỉnh không chỉ phong phú về: Tài nguyên nước mặt và nước ngầm; Tài nguyên khoáng sản; Tài nguyên biển và thủy sản; Tài nguyên rừng gắn với Khu bảo tồn thiên nhiên Thạnh Phú, diện tích 2.584 ha; Tài nguyên du lịch tự nhiên với miệt vườn, mà đây còn có Tài nguyên nhân văn gắn với văn hóa tín ngưỡng, ẩm thực, trang phục, âm nhạc, kiến trúc...của cộng đồng các dân tộc Kinh, Khmer, Champa, Hoa, cũng như truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Một hình dung chung về Bến Tre có thể thấy rõ qua hệ thống không gian đặc sắc của tỉnh: "Miệt vườn - Mặt nước - Văn hóa".
Không gian "Miệt vườn" là cảnh quan xanh nổi bật trên các cù lao, đặc biệt là miệt vườn dừa.
Không gian " Mặt nước" bao gồm 2 dạng: Mặt nước của 4 nhánh sông của hệ thống sông Mê Công và mặt nước biển trải dài với 65km vùng bờ và vươn ra xa đại dương.
Không gian "Văn hóa" là không gian lưu giữ và phát huy truyền thống lịch sử lâu đời, đặc tính con người Bến Tre với tinh thần "Đồng khởi". Tinh thần này được hun đúc mạnh mẽ trong thời kỳ giành độc lập, tạo sức mạnh tổng hợp của thế trận lòng dân, đánh thắng cả những kẻ thù hung bạo nhất; trở thành một bài học trong lịch sử chiến tranh của nhân loại: “Đánh nhau bằng vũ khí; Chiến thắng bằng con người”.
Mảnh đất này cũng là nơi thu hút và nuôi dưỡng nhiều hiền tài Việt Nam, trong đó có nhà chí sĩ, nhà văn Nguyễn Đình Chiểu, nữ tướng Nguyễn Thị Định...

Sơ đồ vị trí tỉnh Bến Tre tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Vào năm 2016, tỉnh Bến Tre có 2 Di tích văn hóa được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt: Di tích lịch sử Đồng khởi Bến Tre, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre và Di tích lịch sử Mộ và Khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu (năm 1822–1888), tục gọi là Đồ Chiểu, là một chí sĩ và nhà thơ lớn của miền nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19.
Ông xuất thân trong gia đình nhà nho. Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người làng Bồ Điền, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế).
Nguyễn Đình Chiểu sinh tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).
Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 11 tuổi (1833) đến 18 tuổi (1840), thì trở về Gia Định.
Năm1843, ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi.
Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849).
Năm 1848, được tin mẹ mất, ông về Nam chịu tang mẹ. Vì quá thương khóc mẹ, vất vả đi đường xa và thời tiết thất thường, nên đến Quảng Nam thì Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng và bị mù cả hai mắt.
Thời gian sau, ông mở trường dạy học và làm thuốc tại Gia Định.
Năm 1858, quân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng; năm 1859 đánh phá thành Gia Định. Khi thành Gia Định thất thủ, Nguyễn Đình Chiểu đưa gia đình về sống ở Thanh Ba, Cần Giuộc, quê vợ ông.
Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ mất về tay người Pháp, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình rời Thanh Ba về Ba Tri, Bến Tre. Tại đây, ông tiếp tục dạy học, làm thuốc và mang sự nghiệp văn chương của mình ra phục vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt trong hơn 20 năm.
Năm 1888, Nguyễn Đình Chiểu qua đời tại Ba Tri, thọ 66 tuổi.
Ông được an táng cạnh mộ vợ, nay thuộc ấp 3, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho sống theo đạo nghĩa, tuy mang tật mù lòa và gặp thời loạn lạc mà vẫn giữ được phẩm cách thanh cao. Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy thuốc mẫu mực, mà còn là một nhà thơ yêu nước với nhiều tác phẩm có giá trị.
Ông chủ trương dùng văn chương để "Chở đạo, Sửa đời và Dạy người", thức tỉnh đạo lý và tạo phúc cho dân.
Về sự nghiệp văn chương của ông, người ta cho rằng có thể chia thành 2 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu (những năm 50 của thế kỷ 19): Có thể xem đây là thời kỳ hình thành đạo lý nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước, yêu dân của ông với tác phẩm "Lục Vân Tiên" và "Dương Từ-Hà Mậu".
- Giai đoạn sau, bắt đầu từ khi giặc Pháp chiếm Gia Định (1859) cho đến khi qua đời (1888): Ông nhận thức được nỗi đau của người dân mất nước. Trong nhiều tác phẩm như "Chạy Giặc", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", "Lục tỉnh sĩ dân trận vong"…ông phê phán triều đình nhu nhược, lên án mạnh mẽ giặc Pháp xâm lược, đồng thời hết lòng ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu anh dũng của nhân dân. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu.
Hầu hết tác phẩm văn thơ của ông đều viết bằng chữ Nôm.
Không thể trực tiếp cầm vũ khí đánh giặc, song Nguyễn Đình Chiểu chiến đấu bằng ngòi bút, hòa mình trong cuộc tranh đấu của người dân và trở thành người phát ngôn của phong trào yêu nước chống Pháp. Trong văn thơ của ông, những lãnh tụ nghĩa quân như Trương ĐỊnh… đã trở thành anh hùng dân tộc, khác với quan niệm phong kiến về trung quân ái quốc thời nhà Nguyễn bấy giờ.
Nguyễn Đình Chiểu được người dân Việt Nam và cả kẻ thù khâm phục. Ông trở thành một trong những biểu tượng sáng ngời cho tinh thần yêu nước và nghĩa khí của người dân Nam Bộ.
Nguyễn Đình Chiểu là một hiện tượng văn hóa của Việt Nam thế kỷ 19, một trong những người khai sáng dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa sau thế kỷ 19, đồng thời đánh dấu bước phát triển mới của văn học nói riêng và văn hóa nói chung tại Nam Kỳ.
Những tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội thời bấy giời và cho đến tận hôm nay.
Tại Việt Nam, nhiều nơi lập đền thờ Nguyễn Đình Chiểu; nhiều đô thị có các con đường, trường học mang tên ông. Người Việt Nam ghi nhớ mãi câu thơ của ông:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.

Tượng Nguyễn Đình Chiểu tại Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre.
Mộ và Khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu
Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu nằm tại Ấp 3, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Di tích có tổng diện tích là 14.187,9m2 với trục tổ hợp theo hướng đông – tây, hướng về phía đông, bao gồm các hạng mục chính: Tam quan, Nhà bia, Đền thờ mới, Đền thờ cũ và Khu mộ.

Tổng mặt bằng Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre.

Phối cảnh tổng thể Nhà bia và Đền thờ mới, Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre.
Tam quan
Tam quan Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu là một cổng lớn, gồm 3 lối vào. Mái cổng 2 tầng, tạo thành 8 mái. Mái uốn cong. Trên đỉnh mái trang trí các phù điêu hình hoa lá, mây cuộn.

Cổng Tam quan, Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre.
Nhà bia
Nhà bia được xây dựng năm 2000 - 2002 bằng bê tông cốt thép, cao 12m, mái 2 tầng dán ngói, nền lát gạch ceramic. Bên trong đắp nổi hoa lá, tứ linh. Đỉnh mái đắp nổi biểu tượng bút lông.
Chính giữa là tấm bia bằng đá xanh, nguyên khối, có kích thước 2,65m x 2,7m x 1,8m. Mặt trước bia khắc bài văn ca ngợi công đức của Nguyễn Đình Chiểu, khắc vào năm 2003; mặt sau bia khắc tóm tắt tiểu sử của nhà thơ.

Nhà bia tại Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre

Mặt trước Bia tại Nhà bia, Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre

Mặt sau Nhà bia, nhìn ra Tam quan, Khu Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre
Đền thờ mới
Đền thờ mới được xây dựng vào năm 2000 - 2002, cao 21m.
Đền thờ gồm 2 tầng: Tầng dưới trưng bày một số hình ảnh khách trong và ngoài nước đến thăm viếng đền. Tầng trên đặt tượng Nguyễn Đình Chiểu bằng đồng cao 1,6m, nặng 1,2 tấn. Hai bên tượng là hai mảng phù điêu. Phù điêu bên trái miêu tả cảnh ông đọc bài văn tế Lục tỉnh sỹ dân trận vong tại Chợ Đập (Ba Tri) năm 1883. Phù điêu bên phải miêu tả trận đánh đầu tiên của Phan Ngọc Tòng (thày giáo, năm 1818- 1868); lãnh đạo nghĩa quân với vũ khí thô sơ đánh Pháp ở Giồng Gạch (An Hiệp) khi giặc đánh chiếm vùng đất Ba Tri vào năm 1868.
Trên 4 cột trụ đỡ mái có các bức chạm khắc hoa văn và các câu thơ nổi tiếng của ông. Trong đó có bài thơ của người sau ca ngợi công đức của ông:
“Nhân nghĩa sáng ngời vầng nhật nguyệt,
Văn chương tỏ rạng ánh sao Khuê”.
Đền có 3 tầng mái (tượng trưng cho 3 nghề nghiệp chính của cụ Đồ Chiểu: Dạy học, Bốc thuốc và Văn chương), nền lát gạch ceramic, mái đổ bê tông dán ngói âm dương màu xanh, trên các cửa ra vào trang trí đắp nổi một số hoa văn cách điệu như: hoa sen, cuốn thư, ngòi bút, hoa lá... trên trần trang trí hoa văn trống đồng.

Đền thờ mới tại Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre.

Ban thờ bên trong Đền thờ mới tại Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre.

Các hiện vật trưng bày bên trong Đền thờ mới tại Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre.
Đền thờ cũ
Đền thờ cũ được xây dựng vào năm 1972, diện tích 84m2; gồm 2 tầng mái, lợp ngói âm dương màu nâu, tường gạch, nền lát gạch theo kiến trúc truyền thống. Trên nóc trang trí hoa văn rồng - mây cách điệu.
Chính giữa có bàn thờ bằng bê tông dán gạch men.
Hai cây cột cái đắp nổi các câu thơ nổi tiếng của ông theo kiểu thư pháp, được sơn màu vàng trên nền đỏ.
Nội thất trưng bày một số hình ảnh, tư liệu về các vị thủ lĩnh và phong trào kháng Pháp của nghĩa quân Nam Kỳ cuối thế kỷ 19.

Đền thờ cũ tại Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre.
Khu mộ
Khu mộ được tôn tạo năm 1958, gồm mộ cụ Đồ Chiểu, mộ cụ bà và mộ con gái Nguyễn Thị Ngọc Khuê (Sương Nguyệt Anh, năm 1864- 1921, chủ bút báo Nữ giới chung - tờ báo phụ nữ đầu tiên của Việt Nam).

Mộ Nguyễn Đình Chiểu tại Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre.
Tại Di tích hiện có phòng trưng bày một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu như: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,... bằng chữ Hán Nôm và một số tài liệu của các nhà nghiên cứu, sưu tầm viết về văn chương và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu.
Hằng năm, chính quyền và nhân dân tỉnh Bến Tre tổ chức Lễ hội truyền thống văn hóa vào ngày 01 và ngày 03 tháng Bảy, nhân ngày sinh và ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu.
Di tích Mộ và Khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Đây là địa điểm ghi dấu sự kiện gắn với danh nhân tiêu biểu Nguyễn Đình Chiểu, một danh nhân văn hóa có ảnh hưởng to lớn đối với tiến trình lịch sử của dân tộc, trong giai đoạn chống Pháp dành độc lập vào cuối thế kỷ 19.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_qu%E1%BB%91c_gia_%C4%91%E1%BA%B7c_bi%E1%BB%87t
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_%C4%90%C3%ACnh_Chi%E1%BB%83u
http://nguyendinhchieu.vn/ndc.nsf/khu-di-tich-nguyen-dinh-chieu.html
http://dsvh.gov.vn/di-tich-lich-su-mo-va-khu-tuong-niem-nguyen-dinh-chieu-2999
https://thamhiemmekong.com/thong-tin-du-lich-mien-tay/khu-di-tich-lang-mo-nguyen-dinh-chieu-ben-tre.html
- Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
- Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
- Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|